Và ba là, tăng số lượng công nhân nước ngoàiĐiều có thể gây ra khó khă dịch - Và ba là, tăng số lượng công nhân nước ngoàiĐiều có thể gây ra khó khă Pháp làm thế nào để nói

Và ba là, tăng số lượng công nhân n

Và ba là, tăng số lượng công nhân nước ngoài

Điều có thể gây ra khó khăn lớn đối với các chính sách dài hạn đó là vấn đề lao động nước ngoài. Không giống như các quốc gia Tây Âu, Nhật Bản không ủng hộ việc sử dụng lao động nước ngoài để giải quyết vấn đề thiếu nhân lực. Bộ Lao động Nhật Bản muốn tối đa hóa các cơ hội lao động cho người lao động Nhật Bản và tối thiểu hóa các ảnh hưởng xã hội tiêu cực của việc nhập cư người lao động nước ngoài. Các công ty lớn của Nhật Bản thường ưu tiên sử dụng công nghệ kỹ thuật sản xuất tiết kiệm lao động hơn là phải thuê lao động nước ngoài. Nhưng do giá trị cao của đồng Yên đã khiến cho Nhật Bản trở nên hấp dẫn đặc biệt đối với những người lao động từ Đông Nam Á hay Mỹ Latinh. Áp lực của việc cắt giảm chi phí cũng khiến cho các chủ sở hữu công ty nhỏ có được sự khuyến khích mạnh mẽ trong việc thuê các nhân công nước ngoài với mức lương thấp hơn và ít chế độ bảo đảm thuê tuyển hơn. Các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất bởi việc thiếu nhân lực là các doanh nghiệp dịch vụ, công ty sản xuất quy mô nhỏ và ngành xây dựng. Đến năm 2010, Nhật Bản đối mặt với tình trạng thiếu khoảng ba triệu lao động. Hơn thế, vì hầu hết người Nhật Bản đều do dự làm các công việc mang tính kiken (nguy hiểm), kitanai (bẩn) và kitsui (khó), do đó các cơ hội công việc dành cho người lao động không phải là người Nhật Bản đang gia tăng mạnh([2]).
Mặc dù Nhật Bản vẫn chưa áp dụng và phát triển một chính sách mở rộng liên quan tới người lao động nước ngoài nhưng một số lượng lớn người nước ngoài có thị thực nhập cảnh vào Nhật Bản với mục đích học tập hay du lịch đều đã tìm cách ở lại Nhật Bản để tìm kiếm việc làm. Chính phủ Nhật Bản đang phải thận trọng triển khai thí điểm các chính sách khác nhau đối với nhóm người này. Cụ thể là chương trình cho phép kéo dài thời gian cư trú của người nước ngoài có nguồn gốc Nhật Bản, theo các điều khoản hợp lý bằng lý do thăm thân tại Nhật Bản. Trên thực tế hầu hết những người nước ngoài làm việc trong các cộng đồng được tạm trú hợp pháp. Các quan chức Chính phủ tính toán rằng, có khoảng 1 triệu người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Nhật Bản, trong đó có khoảng hơn 200.000 người được coi là đang sinh sống và làm việc bất hợp pháp lại Nhật Bản và chỉ có khoảng xấp xỉ 150.000 người đủ điều kiện của chương trình áp dụng cho người nước ngoài có nguồn gốc Nhật mà thôi([3]).
Vì bản thân những người công nhân Nhật Bản phải đối mặt với tình trạng bị cắt giảm biên chế trong khi một số vị trí công việc khác lại được dành cho người nước ngoài nên làn sóng phản đối người lao động nước ngoài của dân Nhật tương tự như đã xảy ra tại Đức trước đây. Nhưng vấn đề quan trọng hơn lại là những rắc rối về mặt xã hội của Nhật Bản. Sự đồng nhất về dân tộc của Nhật Bản và sự cảnh giác với những kẻ ngoại lai đã khiến cho việc hòa đồng của công nhân nước ngoài vào xã hội Nhật Bản trở nên cực kỳ khó khăn. Tội phạm và các sự cố khác liên quan tới người nước ngoài đã làm trầm trọng thêm mối nghi ngờ này. Nói cách khác, sự tiếp nhận lạnh nhạt dành cho người lao động nước ngoài (đặc biệt là những người có nguồn gốc không phải Châu Âu) ở cấp độ cộng đồng người Nhật có thể làm tăng thêm nỗi thất vọng của những người lao động nước ngoài về cuộc sống tại một quốc gia như Nhật Bản. Rõ ràng có một ranh giới rõ rệt phân định giữa người bản xứ và người nước ngoài. Căng thẳng giữa người Nhật và người nước ngoài có thể gây nên phản ứng bài ngoại của dân Nhật cũng như làm trỗi dậy sự phê phán của cộng đồng quốc tế đối với Nhật Bản.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Pháp) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Et Troisièmement, l'augmentation du nombre de travailleurs étrangersĐiều có thể gây ra khó khăn lớn đối với các chính sách dài hạn đó là vấn đề lao động nước ngoài. Không giống như các quốc gia Tây Âu, Nhật Bản không ủng hộ việc sử dụng lao động nước ngoài để giải quyết vấn đề thiếu nhân lực. Bộ Lao động Nhật Bản muốn tối đa hóa các cơ hội lao động cho người lao động Nhật Bản và tối thiểu hóa các ảnh hưởng xã hội tiêu cực của việc nhập cư người lao động nước ngoài. Các công ty lớn của Nhật Bản thường ưu tiên sử dụng công nghệ kỹ thuật sản xuất tiết kiệm lao động hơn là phải thuê lao động nước ngoài. Nhưng do giá trị cao của đồng Yên đã khiến cho Nhật Bản trở nên hấp dẫn đặc biệt đối với những người lao động từ Đông Nam Á hay Mỹ Latinh. Áp lực của việc cắt giảm chi phí cũng khiến cho các chủ sở hữu công ty nhỏ có được sự khuyến khích mạnh mẽ trong việc thuê các nhân công nước ngoài với mức lương thấp hơn và ít chế độ bảo đảm thuê tuyển hơn. Các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất bởi việc thiếu nhân lực là các doanh nghiệp dịch vụ, công ty sản xuất quy mô nhỏ và ngành xây dựng. Đến năm 2010, Nhật Bản đối mặt với tình trạng thiếu khoảng ba triệu lao động. Hơn thế, vì hầu hết người Nhật Bản đều do dự làm các công việc mang tính kiken (nguy hiểm), kitanai (bẩn) và kitsui (khó), do đó các cơ hội công việc dành cho người lao động không phải là người Nhật Bản đang gia tăng mạnh([2]).Mặc dù Nhật Bản vẫn chưa áp dụng và phát triển một chính sách mở rộng liên quan tới người lao động nước ngoài nhưng một số lượng lớn người nước ngoài có thị thực nhập cảnh vào Nhật Bản với mục đích học tập hay du lịch đều đã tìm cách ở lại Nhật Bản để tìm kiếm việc làm. Chính phủ Nhật Bản đang phải thận trọng triển khai thí điểm các chính sách khác nhau đối với nhóm người này. Cụ thể là chương trình cho phép kéo dài thời gian cư trú của người nước ngoài có nguồn gốc Nhật Bản, theo các điều khoản hợp lý bằng lý do thăm thân tại Nhật Bản. Trên thực tế hầu hết những người nước ngoài làm việc trong các cộng đồng được tạm trú hợp pháp. Các quan chức Chính phủ tính toán rằng, có khoảng 1 triệu người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Nhật Bản, trong đó có khoảng hơn 200.000 người được coi là đang sinh sống và làm việc bất hợp pháp lại Nhật Bản và chỉ có khoảng xấp xỉ 150.000 người đủ điều kiện của chương trình áp dụng cho người nước ngoài có nguồn gốc Nhật mà thôi([3]).Vì bản thân những người công nhân Nhật Bản phải đối mặt với tình trạng bị cắt giảm biên chế trong khi một số vị trí công việc khác lại được dành cho người nước ngoài nên làn sóng phản đối người lao động nước ngoài của dân Nhật tương tự như đã xảy ra tại Đức trước đây. Nhưng vấn đề quan trọng hơn lại là những rắc rối về mặt xã hội của Nhật Bản. Sự đồng nhất về dân tộc của Nhật Bản và sự cảnh giác với những kẻ ngoại lai đã khiến cho việc hòa đồng của công nhân nước ngoài vào xã hội Nhật Bản trở nên cực kỳ khó khăn. Tội phạm và các sự cố khác liên quan tới người nước ngoài đã làm trầm trọng thêm mối nghi ngờ này. Nói cách khác, sự tiếp nhận lạnh nhạt dành cho người lao động nước ngoài (đặc biệt là những người có nguồn gốc không phải Châu Âu) ở cấp độ cộng đồng người Nhật có thể làm tăng thêm nỗi thất vọng của những người lao động nước ngoài về cuộc sống tại một quốc gia như Nhật Bản. Rõ ràng có một ranh giới rõ rệt phân định giữa người bản xứ và người nước ngoài. Căng thẳng giữa người Nhật và người nước ngoài có thể gây nên phản ứng bài ngoại của dân Nhật cũng như làm trỗi dậy sự phê phán của cộng đồng quốc tế đối với Nhật Bản.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Pháp) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Và ba là, tăng số lượng công nhân nước ngoài

Điều có thể gây ra khó khăn lớn đối với các chính sách dài hạn đó là vấn đề lao động nước ngoài. Không giống như các quốc gia Tây Âu, Nhật Bản không ủng hộ việc sử dụng lao động nước ngoài để giải quyết vấn đề thiếu nhân lực. Bộ Lao động Nhật Bản muốn tối đa hóa các cơ hội lao động cho người lao động Nhật Bản và tối thiểu hóa các ảnh hưởng xã hội tiêu cực của việc nhập cư người lao động nước ngoài. Các công ty lớn của Nhật Bản thường ưu tiên sử dụng công nghệ kỹ thuật sản xuất tiết kiệm lao động hơn là phải thuê lao động nước ngoài. Nhưng do giá trị cao của đồng Yên đã khiến cho Nhật Bản trở nên hấp dẫn đặc biệt đối với những người lao động từ Đông Nam Á hay Mỹ Latinh. Áp lực của việc cắt giảm chi phí cũng khiến cho các chủ sở hữu công ty nhỏ có được sự khuyến khích mạnh mẽ trong việc thuê các nhân công nước ngoài với mức lương thấp hơn và ít chế độ bảo đảm thuê tuyển hơn. Các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất bởi việc thiếu nhân lực là các doanh nghiệp dịch vụ, công ty sản xuất quy mô nhỏ và ngành xây dựng. Đến năm 2010, Nhật Bản đối mặt với tình trạng thiếu khoảng ba triệu lao động. Hơn thế, vì hầu hết người Nhật Bản đều do dự làm các công việc mang tính kiken (nguy hiểm), kitanai (bẩn) và kitsui (khó), do đó các cơ hội công việc dành cho người lao động không phải là người Nhật Bản đang gia tăng mạnh([2]).
Mặc dù Nhật Bản vẫn chưa áp dụng và phát triển một chính sách mở rộng liên quan tới người lao động nước ngoài nhưng một số lượng lớn người nước ngoài có thị thực nhập cảnh vào Nhật Bản với mục đích học tập hay du lịch đều đã tìm cách ở lại Nhật Bản để tìm kiếm việc làm. Chính phủ Nhật Bản đang phải thận trọng triển khai thí điểm các chính sách khác nhau đối với nhóm người này. Cụ thể là chương trình cho phép kéo dài thời gian cư trú của người nước ngoài có nguồn gốc Nhật Bản, theo các điều khoản hợp lý bằng lý do thăm thân tại Nhật Bản. Trên thực tế hầu hết những người nước ngoài làm việc trong các cộng đồng được tạm trú hợp pháp. Các quan chức Chính phủ tính toán rằng, có khoảng 1 triệu người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Nhật Bản, trong đó có khoảng hơn 200.000 người được coi là đang sinh sống và làm việc bất hợp pháp lại Nhật Bản và chỉ có khoảng xấp xỉ 150.000 người đủ điều kiện của chương trình áp dụng cho người nước ngoài có nguồn gốc Nhật mà thôi([3]).
Vì bản thân những người công nhân Nhật Bản phải đối mặt với tình trạng bị cắt giảm biên chế trong khi một số vị trí công việc khác lại được dành cho người nước ngoài nên làn sóng phản đối người lao động nước ngoài của dân Nhật tương tự như đã xảy ra tại Đức trước đây. Nhưng vấn đề quan trọng hơn lại là những rắc rối về mặt xã hội của Nhật Bản. Sự đồng nhất về dân tộc của Nhật Bản và sự cảnh giác với những kẻ ngoại lai đã khiến cho việc hòa đồng của công nhân nước ngoài vào xã hội Nhật Bản trở nên cực kỳ khó khăn. Tội phạm và các sự cố khác liên quan tới người nước ngoài đã làm trầm trọng thêm mối nghi ngờ này. Nói cách khác, sự tiếp nhận lạnh nhạt dành cho người lao động nước ngoài (đặc biệt là những người có nguồn gốc không phải Châu Âu) ở cấp độ cộng đồng người Nhật có thể làm tăng thêm nỗi thất vọng của những người lao động nước ngoài về cuộc sống tại một quốc gia như Nhật Bản. Rõ ràng có một ranh giới rõ rệt phân định giữa người bản xứ và người nước ngoài. Căng thẳng giữa người Nhật và người nước ngoài có thể gây nên phản ứng bài ngoại của dân Nhật cũng như làm trỗi dậy sự phê phán của cộng đồng quốc tế đối với Nhật Bản.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: