-gia tăng dân số: dân số trên lưu vực sông Hương tăng khá nhanh ảnh hưởng tới sử dụng chất lượng nước.-Biến đổi khí hậu, hiểm họa về nước tăng làm thay đổi dòng chảy trong khoảng từ 4% - 19%. Dòng chảy cạn thay đổi đáng kể, từ -2% đến -24%. Các kết quả tính toán cho thấy đến năm 2070, đối với các sông nhỏ và trung bình như sông Hương, dòng chảy năm sẽ bị giảm tối đa là 23 - 40,5%. Bốc hơi tiềm năng tương ứng là 3% và 8%.-Nước biển dâng: nước biển dâng do bão có tác động nguy hiểm nhất, tràn qua đê ngăn mặn đi sâu vào đất liền 2 - 3km.- nhu cầu dùng nước tăng: chỉ tính nước sinh hoạt trên lưu vực sông Hương cũng cần tới trên 13,4 triệu m3/năm, công nghiệp 2,0 triệu m3/năm, nông nghiệp 390 triệu m3/năm, chăn nuôi 3,0 triệu m3/năm và thủy sản 36,0 triệu m3/năm. Tổng lượng nước sử dụng của các ngành chiếm khoảng 11% lượng nước đến tần suất 75% của lưu vực sông Hương (4.115,4 triệu m3/năm). Theo dự báo đến năm 2020, tổng nhu cầu dùng nước của các ngành trên lưu vực sông Hương khoảng 639,0 triệu m3/năm [3].- rừng đầu nguồn bị thu hẹp: trên lưu vực sông Hương trong giai đoạn 2000 - 2005 diện tích rừng giảm đi nhanh chóng, tổng diện tích các loại thảm thực vật giảm từ 390.513,6 ha xuống còn 262.500 ha, trong đó rừng giàu giảm nhanh nhất từ 17.156,9 ha năm 2000 xuống còn 11.385,6 ha năm 2005. Tốc độ thu hẹp của rừng mỗi năm không ngừng suy giảm nếu con người chưa nhận thức được lợi ích lâu dài do rừng mang lại.- Tình trạng sạt lở ngày càng gia tăng: trên 36 km bờ sông xảy ra sạt lở nghiêm trọng, tập trung chủ yếu dọc theo sông Bồ, sông Hương ảnh hưởng đến 2.419 hộ, trên 508 hộ phải di dời. Đặc biệt, sạt lở hệ thống sông Hương gây ô nhiễm môi trường, tăng cường độ đục làm ảnh hưởng đến chất lượng nước sinh hoạt của dân cư thành phố Huế và vùng hạ lưu.-Ô nhiễm nước ngày một trầm trọng: Do công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra với tốc độ nhanh, sản lượng sản xuất tăng trưởng khá, đạt 15,9% như Menfrit, Imenic, Zincon, sợi, bia, xi măng… Đã hình thành một số ngành, cơ sở công nghiệp mũi nhọn, tạo chuyển biến khá rõ trong các ngành chế biến thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, dệt may… Do đó, nước thải, chất bẩn sẽ tăng lên nhiều lần.-dùng hóa chất bảo vệ thực vật. Hàng năm, nông dân trên lưu vực đã sử dụng khoảng 1.200 - 1.800 tấn thuốc trừ sâu và diệt cỏ. Số thuốc này, cây cối chỉ hấp thụ khoảng 50%, phần còn lại sẽ ngấm xuống đất gây ô nhiễm đất và nước ngầm.- nước thải từ các công trình công cộng, chợ búa, dân cư sống gần sông, ao hồ, dân vạn đò, các lò mổ, cống thải bệnh viện… thường xuyên thải trực tiếp ra sông rất nhiều chất thải nguy hiểm gây ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt là vi khuẩn gây bệnh. Hàng năm, vào mùa hè, các bệnh như tả, lỵ thường xuất hiện và lây lan rất mạnh.
đang được dịch, vui lòng đợi..