3. The topography, geomorphologyVùng nghiên cứu có dạng địa hình đồng bằng có cồn cát và đầm phá, trong đó các đụn cát và cồn cát phân bố gần bờ, kéo dài song song với phương của bờ biển và tập trung chủ yếu ở phía nam của dải phía bắc và phía bắc của dải phía nam. Phần còn lại là các đồng bằng thấp. Mặc khác, vùng nghiên cứu được biển và hệ đầm phá bao bọc nên bề mặt nước dưới đất có dạng thấu kính, mực nước dưới đất nằm nông, biến đổi từ 0,4 đến 12 m. Thành phần thạch học của tầng chứa nước chủ yếu là cát thạch anh, lớp phủ thực vật phát triển kém. Chính tình hình đó tạo điều kiện thuận lợi cho nước mưa thấm cung cấp cho nước dưới đất. Tuy nhiên, ở những vùng địa hình cao, mực nước dưới đất nằm sâu, lượng nước mưa cung cấp cho nước dưới đất chậm. Khi lượng mưa tăng thì mực nước dưới đất dâng cao chậm hơn, sự lệch pha so với lượng mưa từ 10 đến 20 ngày và građien áp lực (độ dốc mực nước) của nước dưới đất tương đối lớn, do tốc độ thoát tăng (lỗ khoan C09 phân bố trên sườn dải cát; cao trình mặt đất tại lỗ khoan Z = 7,93 m; độ sâu mực nước cực tiểu hmin = 1,46 m, cực đại hmax = 3,31 m; biên độ dao động mực nước cực đại Dh = 1,85 m; Hình 3). Ngược lại, ở những vùng địa hình thấp, mực nước dưới đất nằm nông, lượng nước mưa cung cấp cho nước dưới đất nhanh, khi lượng mưa tăng thì mực nước dưới đất cũng dâng cao, sự lệch pha so với lượng mưa là không đáng kể từ 1 đến 5 ngày và građien áp lực của nước dưới đất tương đối nhỏ do tốc độ thoát thấp (lỗ khoan C03 phân bố dưới chân dải cát; cao trình mặt đất tại lỗ khoan Z = 3,21 m; độ sâu mực nước cực tiểu hmin = 0,48 m, cực đại hmax = 1,30 m; biên độ dao động mực nước cực đại Dh = 0,83 m; Hình 2).
đang được dịch, vui lòng đợi..