Thuật ngữ Toponymy (địa danh) lần đầu tiên xuất hiện ở Anh năm 1876. T dịch - Thuật ngữ Toponymy (địa danh) lần đầu tiên xuất hiện ở Anh năm 1876. T Anh làm thế nào để nói

Thuật ngữ Toponymy (địa danh) lần đ

Thuật ngữ Toponymy (địa danh) lần đầu tiên xuất hiện ở Anh năm 1876. Từ đó đến nay, thuật ngữ này dần được thay thế bằng một thuật ngữ khác là Place-names. Địa danh là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như lịch sử, địa lý, văn hóa, du lịch ..., nhưng trước hết là ngôn ngữ học. Trên thế giới có thể kể tên nhiều nhà địa danh học nổi tiếng như George R. Stewart, Richard Coates (Anh), Oliver Padel, Eilert Ekwall (Mỹ), G.P.Smolicnaja, M.V.Gorbanevskij và A.V.Supêranskaia (Nga)... Mỗi ngành khoa học nghiên cứu địa danh từ mục tiêu riêng, cách tiếp cận riêng.
Tuy vậy thực tế, vấn đề nghiên cứu địa danh đã được ngôn ngữ học thế giới quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Từ đầu Công nguyên ở phương Đông đã diễn ra giai đoạn khởi nguồn. Thao tác chủ yếu ở giai đoạn này là ghi chép, sưu tập, tổng hợp và giải thích về cách đọc, về ý nghĩa của địa danh. Tiêu biểu như các tác phẩm Hán thư ghi chép được hơn 4000 địa danh, Thuỷ kinh chú đề cập trên 20 000 địa danh, số được giải thích là khoảng 2300 địa danh.
Ở phương Tây bộ môn địa danh học bắt đầu được nghiên cứu nhiều từ cuối thế kỉ XIX, nhưng trên thực tế nó đã xuất hiện từ trước. Trong Thánh Kinh của Thiên chúa giáo cũng thu thập được rất nhiều địa danh. Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX là thời điểm nở rộ các công trình nghiên cứu về địa danh và đã mang tính chất lí luận cao. Tiêu biểu là các cuốn “Địa lí từ nguyên học”(1835) của T.A. Gibson hướng đến một danh sách phân loại về từ ngữ thường gặp như tiền tố, hậu tố trong phức thể của tên địa lí; cuốn “ Từ và các địa điểm hay sự minh hoạ có tính nguyên lai về lịch sử, dân tộc học và địa lí học” (1864) của I ssac Taylor; cuốn “Địa danh học” (1872) của J.J. Egli; cuốn “Địa danh học” (1903) của J. W. Nagh.
Từ đầu thế kỉ XX có thêm nhiều công trình nghiên cứu đi sâu về địa danh. Ví dụ như cuốn “Nguồn gốc và sự phát triển địa danh” (1926) của A. Dauzat, “Các tên gọi, một khảo sát về việc đặt tên địa điểm” (1958) của George, “Thực hành địa danh học” (1977) của P. E. Raper. Ngoài ra còn có hàng loạt công trình của các nhà địa danh học Nga đặt nền tảng đầu tiên cho việc xây dựng hệ thống lí luận về địa danh học. Đó là E.M.Murzaev với “Những khuynh hướng nghiên cứu địa danh học”, A.Kapenko với tác phẩm “Bàn về địa danh học đồng đại”, hay “Những nguyên tắc cơ bản của công tác nghiên cứu địa danh” của A.I.Popôv, đặc biệt là công trình “Địa danh học là gì” của A.V. Superanskaja đã mang lại những định hướng mới cho việc nghiên cứu địa danh, tạo ra những giá trị nhất định trong quá trình phát triển của địa danh học.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
The term Toponymy (place) first appeared in England in 1876. Since then, the term is replaced by a different term is Place-names. Landmarks are the object of research of many scientific disciplines such as history, geography, culture, tourism ... but first of all is the language school. The world could name many of the famous landmarks such as the George r. Stewart, Richard Coates (UK), Oliver Padel, Eilert Ekwall (USA), G.P.Smolicnaja, M.V.Gorbanevskij and A.V. Supêranskaia (Russia) ... Each research science landmarks from the objective, specific approach.
Yet practical, research problem areas were world Linguistics study from early on. From the ad in the East took to the stage started. The operation mostly in this period was recorded, the collection, compilation and explanation on how to read, about the meaning of landmarks. As the book of Han records gets over 4000 locations, Marine classics you mentioned on 20 000 places, the number is interpreted as approximately 2300 landmarks.
In the West Department of geological studies began to be studied from the late NINETEENTH century, but in fact it has appeared before. In the Holy Scriptures of Christianity also collected a lot of places. End of XIX century, the TWENTIETH century was the time of blooming research works about the landmarks and brought the nature argument. Typical is the book "the geographic etymology" (1835) by T.A. Gibson headed a list of categorized frequently asked about words as prefixes, suffixes in the complexes of geographic names; his book "From and the place or the illustration is highly original hybrids of the history, ethnography and geography classrooms" (1864) of I ssac Taylor; his book "landmarks" (1872) by J. J. Egli; his book "landmarks" (1903) by j. w. Nagh.
Early TWENTIETH century have more research going back to landmarks. For example, his book "the origins and development of the landmarks" (1926) by a. Dauzat, "names, a survey about named location" (1958) by George, "practice areas" (1977) by p. e. Raper. There are also numerous works of Russian geographic names first laid the Foundation for the construction of the system storage on geological studies. It is E.M. Murzaev studied trends of "landmarks", a. Kapenko with works "discusses University student places", or "The basic principles of the research work places" of A.I. Popôv, especially the "what is school places" by A.V. Superanskaja has brought the new orientation for the study of place names, created the given value in the development of the geological sciences.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Anh) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Toponymy term (places) first appeared in English in 1876. Since then, the term was gradually replaced by another term as Place-names. Places subject of much research science as history, geography, culture, tourism ..., but first and foremost linguists. The world could name many famous landmarks as George R. Stewart, Richard Coates (UK), Oliver Padel, Eilert Ekwall (U.S.), GPSmolicnaja, MVGorbanevskij and AVSuperanskaia (Russia) ... Every science study sites from own goals, its own approach.
fact, however, places the problem has been studied linguistics research world very soon. From the beginning of AD took place in Eastern origins stages. Actions primarily at this stage are recorded, collection, synthesis and interpretation of the reading, the meaning of place. Typically works hatred than 4,000 recorded sites, business Thuy pay on 20 000 referring sites, the number is interpreted as 2300 sites.
departments in the West began to study places to be studied many from the late nineteenth century, but in fact it has appeared before. In the Christian Bible also collected a lot of places. At the end of the nineteenth century, early twentieth century is the time of blooming of the study sites and has high theoretical nature. Typically the book "Geography etymology" (1835) by TA Gibson directed to a classified list of common words such as prefixes, suffixes in the complex of geographical names; book "From local and point or the future integrity illustration of the history, ethnography and geography education "(1864) Taylor's first SSAC; book" Places of learning "(1872) by JJ EGLI; book" Places of learning "(1903 ) by JW Nagh.
From the early twentieth century more in depth study of place names. For example, the book "The origin and development sites" (1926) by A. Dauzat, "The name, a survey of the place name" (1958) by George, "Practical study places" (1977) of PE Raper. There is also a series of works of the famous Russian first lay the foundation for the construction of systems theory to study places. It is EMMurzaev with "Trends research study places", A.Kapenko to work "desk for study places at the same age," or "The fundamental principles of research sites" of AIPopov, special Special works "Places are learning what" of AV Superanskaja has brought new directions for research sites, creating a certain value in the development of school places.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: