II/ Quyền tự do kinh doanh:Hiến pháp 2013 đã thừa nhận quyền tự do kinh doanh là quyền con người và là một trong những quyền cơ bản của công dân. Hơn nữa, không quy định chung chung như Hiến pháp 1992 là công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, điều 33 của Hiến pháp 2013 nói rõ rằng “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Quy định này hàm chứa hai ý quan trọng: (i) Mọi người có quyền tự do kinh doanh; và (ii) Giới hạn của quyền tự do đó là những gì luật cấm, nói khác đi, muốn cấm cái gì thì Nhà nước phải công bố minh thị.Ngành nghề cấm kinh doanh: Điều cấm đã được nói rõ Luật Doanh nghiệp hiện hành không nêu các ngành nghề cấm kinh doanh. Thay vào đó, điều 30 LĐT hiện hành cấm đầu tư trong các lĩnh vực gây phương hại đến (i) quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích công cộng; (ii) di tích lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam; (iii) sức khỏe nhân dân, hủy hoại tài nguyên, phá hủy môi trường; và (iv) các dự án xử lý phế thải độc hại đưa từ bên ngoài vào Việt Nam; sản xuất các loại hóa chất độc hại hoặc sử dụng tác nhân độc hại bị cấm. Vấn đề là không dễ xác định phạm vi của các lĩnh vực cấm đầu tư, vậy nên, về bản chất, không thể xác định được giới hạn cấm.Tuy nhiên, điều này hoàn toàn thay đổi trong LDN 2014. Điều 7 về quyền của doanh nghiệp trong LDN 2014 minh thị rằng doanh nghiệp được “tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm”.Điều 6 LĐT 2014 cấm đầu tư kinh doanh trong sáu ngành nghề sau: kinh doanh ma túy; kinh doanh hóa chất, khoáng vật cấm; kinh doanh động, thực vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm có nguồn gốc từ tự nhiên; kinh doanh mại dâm; mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người và các hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính trên người. Để làm rõ hơn giới hạn cấm này, trong phụ lục 1 và 2, LĐT 2014 còn liệt kê chi tiết danh mục chất ma túy, danh mục động, thực vật, khoáng vật cấm kinh doanh đầu tư. Trong lịch sử lập pháp Việt Nam, có lẽ đây là lần đầu tiên một văn bản luật nhưng lại có các phụ lục quy định chi tiết và tỉ mỉ như vậy. Điều 9, LDN hiện hành quy định doanh nghiệp có nghĩa vụ “hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (GCNĐKDN). Điều luật này trói buộc doanh nghiệp trong những ngành nghề mà Nhà nước nghĩ ra, liệt kê ra và cho phép doanh nghiệp đăng ký. Suy cho cùng, đó là sự ban phát quyền kinh doanh từ Nhà nước. Tuy nhiên, một khi giới hạn cấm kinh doanh đã được làm sáng tỏ, việc liệt kê ngành nghề kinh doanh, với ý nghĩa xác định quyền hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, sẽ trở nên vô nghĩa. Trong LDN 2014, ngành nghề kinh doanh không còn là một nội dung trong GCNĐKDN nữa. Theo điều 29 của luật mới này, GCNĐKDN sẽ chỉ còn bốn nội dung: tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp; địa chỉ trụ sở chính; thông tin về người đại diện theo pháp luật và thành viên công ty; và vốn điều lệ. Đứng ở góc độ điều hành, doanh nghiệp sẽ không còn phải lo lắng xem công việc mình đang làm có phù hợp với ngành nghề đã đăng hay không, hoặc hợp đồng sẽ hoặc đã ký có bị đối tác kiện ra tòa yêu cầu tuyên vô hiệu với lý do nội dung công việc không nằm trong phạm vi ngành nghề đăng ký hay không.
đang được dịch, vui lòng đợi..