Red Snapper là một loài cá biển được giới tiêu thụ rất ưa thích vì thị dịch - Red Snapper là một loài cá biển được giới tiêu thụ rất ưa thích vì thị Anh làm thế nào để nói

Red Snapper là một loài cá biển đượ

Red Snapper là một loài cá biển được giới tiêu thụ rất ưa thích vì thịt được xem là nạc, ít xương và khá thơm ngon.
Tên của cá gây khá nhiều nhầm lẫn trong Anh ngữ cũng như Việt ngữ.

Trong Anh ngữ, tên Red snapper được chính thức dùng để gọi cá thuộc chi Lutjanus họ cá Lutjanidae. Một số loài cá khác như Rockfish, thuộc chi Sebastes (tại Việt Nam, gọi là cá mú) cũng được gọi là red snapper hay rõ hơn là Pacific red snapper. Cá Orange Roughy, loài cá từ Tân Tây Lan, đã từng được quảng cáo (dù không có căn bản khoa học) là giúp hạ cholesterol cũng được một số người gọi là red snapper, Red Snapper…

Tại Việt Nam, tên Red Snapper có thể kèm theo một tên phụ để mô tả thêm về cá như: Red Snapper đỏ (Lutjanus sanguineus), Red Snapper lang (Lutjanus sebae), Red Snapper bạc, Red Snapper chấm đen..v.v. Nhưng tên Red Snapper (cũng có thêm tên phụ kèm theo) còn được dùng để gọi nhiều loài cá cảnh như Red Snapper vũ, Red Snapper đào, Red Snapper nhung, Red Snapper két.. tất cả đều thuộc các chi cá khác hoàn toàn không liên hệ với loài Red snapper.. Riêng cá Điêu Hồng thì thuộc nhóm cá rô phi hay tilapia.

Họ cá Lutjanidae là một họ cá biển (tuy có một vài loài có thể gặp tại các vùng nước lợ nơi cửa sông). Cá sinh sống tại những vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, có thể sống tại những độ sâu đến 400m. Đây là một loài cá dữ, ăn mồi gồm những cá và nhuyến thể khác nhỏ hơn. Họ Lutjanidae gồm đến 16 chi và đến trên 100 loài trong đó 60 loài được gọi là snapper.

Red Snapper trong vùng biển Thái Bình Dương (Á Châu):

Tại vùng biển Thái Bình Dương Á Châu có nhiều loại Red Snapper trong đó có những loại có thể gặp tại vùng biển Việt Nam:
Red Snapper bạc, Lutjanus argentimaculatus, Mangrove red snapper; Vivaneau des mangroves (Pháp). Pargo de manglar (Tây Ban Nha). Thái: Pla kaphong si thao. HongKong: Hung yau. Taiwan: yin wen di diao.

Cá có thân hình bầu dục dài, một bên dẹp. Viền lưng cong đều, viền bụng thẳng từ miệng đến hậu môn. Đầu lớn vừa phải. Mõm dài và nhọn. Xương hốc mắt rộng. Miệng rộng, hơi chếch; hàm dưới dài hơn hám trên; hàm trên có 1-2 răng nanh chìa ra phía ngoài, và có nhiều răng nhỏ lùi vào phía trong; hàm dưới không có răng nanh. Thân cá phủ vẩy lược lớn. Vây lưng có 10 gai cứng và 13-14 tia mềm. Vây ngực dài và rộng, hình lưỡi liềm có 16-17 tia. Vây đuôi rộng, viền sau lõm. Vây hậu môn có 3 gai và 8 tia mềm. Thân cá có lưng màu đỏ tươi hay hơi hồng tía, bụng màu trắng xám bạc; ngoại trừ vây ngực, màng các vây còn lại đều có màu đen; hai bên má có 1-2 vân màu xanh ở dươi mắt. Cá chuyển sang màu hồng xậm khi chết.
Cá dài tối đa 1.5 m , trung bình khi đánh bắt 0.8 m
Red Snapper bạc sống tại độ sâu 10-120m, trong vùng nhiệt độ 16-33 độ C. Cá nhỏ sinh sống phần lớn tại các nơi cửa sông và vùng rừng ngập mặn, nơi nước lợ; khi gần trưởng thành cá di chuyển ra vùng biển xa bờ sống nơi vùng đáy có rặng san hô, nhiều rong biển và nhiều hang. Red Snapper bạc thuộc loại cá dữ, ăn các cá, nhuyến thể và giáp xác nhỏ.
Cá đẻ trứng quanh năm, khả năng sinh sản cao, mỗi lần đẻ 1-2 triệu trứng. Cá sống được đến 18 năm.
Cá phân bố khá rộng trong vùng biển Ấn Độ – Thái Bình Dương, xuống đến Bắc Úc và từ Kinh Suez đi vào được cả Địa Trung Hải.
Tại Việt Nam cá thường gặp tại những vùng biển từ miền Trung xuống đến miền Nam, số lượng đánh bắt được trong vùng Nha Trang (2010) đã sụt giảm rất nhiều.
Tuy Red Snapper bạc có giá trị kinh tế cao như số lượng đánh bắt được trong thiên nhiên thường ở mức độ giới hạn. Theo thống kê của FAO, lượng đánh bắt toàn cầu năm 2007 vào khoảng 16 ngàn tấn, trong đó Mã Lai chiếm đến 12 ngàn và Pakistan 2 ngàn tấn.

Red Snapper bạc hiện đang được nuôi tại các trại thủy sản trong các điều kiện nuôi nhân tạo ở Thái Lan, Đài Loan, Úc để khai thác thương mại cung cấp cho các thị trường HongKong, Singapore, Nhật. Sản lượng toàn cầu theo FAO (2007) lên đến khoảng 5 ngàn tấn. Nghiên cứu tại Khoa Nuôi Trồng Thủy Sản, Viện ĐH Nha Trang đã tìm được cách sản xuất cá giống, theo phương pháp nhân tạo, và đã nuôi thử được khoảng 30 ngàn cá giống tại Nha Trang (tháng 12/2009).

Redfin snapper

Cá có thân hình bầu dục dài dẹp một bên, kích thước từ 0.3-0.5 m lớn nhất 0.7m. Thân màu đỏ tươi, bụng hồng nhạt. Thân phủ vẩy lược cứng cả ở má và nắp mang. Vây lưng dài có gai cứng nhỏ. Vây ngực lớn, mút cuối vượt quá vây hậu môn. Vây đuôi rộng, mép sau lõm. Rìa sau vây đuôi đen xám.
Cá phân bố từ Biển Đỏ, Đông Phi Châu sang Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, Nam Dương, Nhật và cả Việt Nam.
Cá hiện được nuôi tại các quốc gia Đông Nam Á, Trung Hoa và Úc, kể cả Việt Nam (từ 2006).

Emperor Red snapper

Cá có hình dạng hơi khác biệt với các cá khác thuộc chi Lutjanus. Thân hình bán nguyệt, lưng gồ cao. Đầu lớn dẹp một bên. Miệng rộng, chếch hai hàm dài bằng nhau: hàm trên và hàm dưới có hàm răng to và khỏe ở phía ngoài và đai răng nhỏ mọc ở phia trong. Cửa hàm trên có 2 răng nanh. Mang có lược ngắn, thô và cứng. Thân phủ vẩy lược mỏng. Vây lưng dài và liên tục; vây ngực dài và rộng: đầu mút của vây dài vượi qua điểm khởi đầu của vây hậu môn. Vây đuôi rộng, mép sau lõm sâu. Cá có thân màu hồng, bên thân có 3 vân màu đỏ xậm. Vân ở giữa bụng màu đen nâu. Các vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi có phần nửa bên ngoài đều đen-nâu.
Red Snapper lang dài từ 1 đến 1.5 m. Vùng phân bố cũng như Red Snapper đỏ và hồng bạc..
Tại Mã Lai, cá được gọi là Government bream có lẽ do hình dạng và màu sắc của vân trên thân khiến cá giống như bị cuốn bằng những dải đỏ.
Một số loài Lutjanus khác:
Cũng tại những khu vực phân bố trên, kể cả vùng biển Việt Nam còn có những loại Red Snapper khác như:
Ludjanus vitta: Red Snapper dải đen, Red Snapper bí. Brown stripe snapper, Striped red snapper. Cá dài 1-1.7m. Thân màu nâu nhạt. Từ sau mắt có 1 vân đen chạy dọc suốt thân đến gốc vây đuôi. Bên thân có một vết đen lớn, hình bầu dục nằm ngay dưới đoạn tiếp giáp của tia cứng và tia mềm của vây lưng. Mỗi vẩy có 1 chấm đen hình que.
Ludjanus malabaricus: Red Snapper mala, Red Snapper mím. Malabar red snapper. Cá nhỏ chừng 45cm-60 cm. Thân màu đỏ xậm.
Lutjanus lineolatus: Red Snapper vàng sọc mờ. Bigeyed snapper. Thân hình bán nguyệt như Red Snapper lang, lưng gồ cao. Thân màu hồng, bên thân có 3 vân màu đỏ xậm. Cá nhỏ, chừng 20-30 cm.
Ludjanus johni: Red Snapper vẩy ngang. John’s snapper. Thailand snapper. Vivaneau ziebelo. Thân phủ vẩy lược lớn, xếp thành hàng dọc đều trên thân. Mỗi vẩy có một chấm đen nhỏ. Thân màu nâu nhạt. Cá nhỏ 10-25 cm.
– Red Snapper trong vùng biển Đại Tây Dương:
Trong vùng biển Đại Tây Dương, dọc duyên hải Mỹ Châu có những loài snapper đáng chú ý như:

Red Snapper vảy ngang Lutjanus johni
Ludjanus purpureus: Southern Red snapper, Vivaneau rouge, Pargo colorado.
Thân cá hình bầu dục. Đầu ngắn, lưng uống cong ngay từ sau mắt. Mõm ngắn và tù. Mắt to. Vây lưng có 10 gai cứng và 14 tia mềm. Vây hậu môn ở cá (con dài trên 5cm) nhọn, có 3 gai và 6 tia mềm. Vây ngực dài. Vây đuôi hình bán nguyệt, phần trên dài hơn phần dưới. Thân phủ vẩy xếp thành hàng. Cá có lưng và phần thân trên màu đỏ xậm; hai bên thân và bụng màu hồng nhạt. Vây thường màu hồng đỏ, đôi khi có những đốm xậm nơi đáy.
Cá dài đến 1m, trung bình cỡ 65 cm. Trọng lượng tối đa 10 kg. Chúng sống nơi vùng biển có độ sâu 30-160m nơi có nhiều hốc đá. Mùa đẻ trứng vào các tháng Xuân và Hè. Tuổi thọ từ 12-18 năm.
Cá phân bố trong vùng biển nhiệt đới Tây Đại Tây Dương: trong khu vực Caribbean, Cuba xuống đến vùng Đông-Bắc Brazil.
Ludjanus campechanus: Northern Red snapper, Gulf red snapper. Pháp: Vivaneau campêche, vivaneau jaune-bleu. Tây Ban Nha: Pargo colorado.
Cá có thân và vây màu hồng-đỏ, bụng nhạt hơn. hai bên thân có những đốm xậm. Đầu to, mắt nhỏ màu đỏ, mõm hơi nhọn. Cá có thể dài đến 1m, trung bình khoảng 40 cm, nặng trung bình 9-10 kg, có thể đến 24 kg. Cá có thể sống đến trên 40 năm. Phân bố trong vùng biển Trung Mỹ và cả trong vùng Vịnh Mexico. Cá được xem là cá ‘câu, thể thao’, và thịt ngon. Mỗi năm Hoa Kỳ đánh bắt khoảng 4 ngàn tấn. Để bảo vệ cá, chính phủ đã ấn định số lượng được phép đánh bắt.
Red Snapper trong vùng biển California:
Trong vùng biển California, nhất là vào những năm nước biển ‘ấm hơn’ có thể câu hoặc đánh bắt được những loại Red Snapper như
Lutjanus argentiventris: Amarillo snapper.
Cá dài khoảng 60 cm.Phần trước thân màu hồng đỏ, chuyển sang vàng nhạt nơi phần sau, lưng đôi khi màu nâu-đỏ.Vây đuôi vàng. Dưới mắt có những vệt hay đốm màu xanh lam. Cá phân bố trong vùng biển phía Nam California xuống đến Peru.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Red Snapper là một loài cá biển được giới tiêu thụ rất ưa thích vì thịt được xem là nạc, ít xương và khá thơm ngon.Tên của cá gây khá nhiều nhầm lẫn trong Anh ngữ cũng như Việt ngữ.Trong Anh ngữ, tên Red snapper được chính thức dùng để gọi cá thuộc chi Lutjanus họ cá Lutjanidae. Một số loài cá khác như Rockfish, thuộc chi Sebastes (tại Việt Nam, gọi là cá mú) cũng được gọi là red snapper hay rõ hơn là Pacific red snapper. Cá Orange Roughy, loài cá từ Tân Tây Lan, đã từng được quảng cáo (dù không có căn bản khoa học) là giúp hạ cholesterol cũng được một số người gọi là red snapper, Red Snapper…Tại Việt Nam, tên Red Snapper có thể kèm theo một tên phụ để mô tả thêm về cá như: Red Snapper đỏ (Lutjanus sanguineus), Red Snapper lang (Lutjanus sebae), Red Snapper bạc, Red Snapper chấm đen..v.v. Nhưng tên Red Snapper (cũng có thêm tên phụ kèm theo) còn được dùng để gọi nhiều loài cá cảnh như Red Snapper vũ, Red Snapper đào, Red Snapper nhung, Red Snapper két.. tất cả đều thuộc các chi cá khác hoàn toàn không liên hệ với loài Red snapper.. Riêng cá Điêu Hồng thì thuộc nhóm cá rô phi hay tilapia.Họ cá Lutjanidae là một họ cá biển (tuy có một vài loài có thể gặp tại các vùng nước lợ nơi cửa sông). Cá sinh sống tại những vùng biển nhiệt đới và cận nhiệt đới, có thể sống tại những độ sâu đến 400m. Đây là một loài cá dữ, ăn mồi gồm những cá và nhuyến thể khác nhỏ hơn. Họ Lutjanidae gồm đến 16 chi và đến trên 100 loài trong đó 60 loài được gọi là snapper.Red Snapper trong vùng biển Thái Bình Dương (Á Châu):Tại vùng biển Thái Bình Dương Á Châu có nhiều loại Red Snapper trong đó có những loại có thể gặp tại vùng biển Việt Nam:Red Snapper bạc, Lutjanus argentimaculatus, Mangrove red snapper; Vivaneau des mangroves (Pháp). Pargo de manglar (Tây Ban Nha). Thái: Pla kaphong si thao. HongKong: Hung yau. Taiwan: yin wen di diao.Cá có thân hình bầu dục dài, một bên dẹp. Viền lưng cong đều, viền bụng thẳng từ miệng đến hậu môn. Đầu lớn vừa phải. Mõm dài và nhọn. Xương hốc mắt rộng. Miệng rộng, hơi chếch; hàm dưới dài hơn hám trên; hàm trên có 1-2 răng nanh chìa ra phía ngoài, và có nhiều răng nhỏ lùi vào phía trong; hàm dưới không có răng nanh. Thân cá phủ vẩy lược lớn. Vây lưng có 10 gai cứng và 13-14 tia mềm. Vây ngực dài và rộng, hình lưỡi liềm có 16-17 tia. Vây đuôi rộng, viền sau lõm. Vây hậu môn có 3 gai và 8 tia mềm. Thân cá có lưng màu đỏ tươi hay hơi hồng tía, bụng màu trắng xám bạc; ngoại trừ vây ngực, màng các vây còn lại đều có màu đen; hai bên má có 1-2 vân màu xanh ở dươi mắt. Cá chuyển sang màu hồng xậm khi chết.Cá dài tối đa 1.5 m , trung bình khi đánh bắt 0.8 mRed Snapper bạc sống tại độ sâu 10-120m, trong vùng nhiệt độ 16-33 độ C. Cá nhỏ sinh sống phần lớn tại các nơi cửa sông và vùng rừng ngập mặn, nơi nước lợ; khi gần trưởng thành cá di chuyển ra vùng biển xa bờ sống nơi vùng đáy có rặng san hô, nhiều rong biển và nhiều hang. Red Snapper bạc thuộc loại cá dữ, ăn các cá, nhuyến thể và giáp xác nhỏ.Cá đẻ trứng quanh năm, khả năng sinh sản cao, mỗi lần đẻ 1-2 triệu trứng. Cá sống được đến 18 năm.Cá phân bố khá rộng trong vùng biển Ấn Độ – Thái Bình Dương, xuống đến Bắc Úc và từ Kinh Suez đi vào được cả Địa Trung Hải.Tại Việt Nam cá thường gặp tại những vùng biển từ miền Trung xuống đến miền Nam, số lượng đánh bắt được trong vùng Nha Trang (2010) đã sụt giảm rất nhiều.Tuy Red Snapper bạc có giá trị kinh tế cao như số lượng đánh bắt được trong thiên nhiên thường ở mức độ giới hạn. Theo thống kê của FAO, lượng đánh bắt toàn cầu năm 2007 vào khoảng 16 ngàn tấn, trong đó Mã Lai chiếm đến 12 ngàn và Pakistan 2 ngàn tấn.Red Snapper bạc hiện đang được nuôi tại các trại thủy sản trong các điều kiện nuôi nhân tạo ở Thái Lan, Đài Loan, Úc để khai thác thương mại cung cấp cho các thị trường HongKong, Singapore, Nhật. Sản lượng toàn cầu theo FAO (2007) lên đến khoảng 5 ngàn tấn. Nghiên cứu tại Khoa Nuôi Trồng Thủy Sản, Viện ĐH Nha Trang đã tìm được cách sản xuất cá giống, theo phương pháp nhân tạo, và đã nuôi thử được khoảng 30 ngàn cá giống tại Nha Trang (tháng 12/2009).Redfin snapperCá có thân hình bầu dục dài dẹp một bên, kích thước từ 0.3-0.5 m lớn nhất 0.7m. Thân màu đỏ tươi, bụng hồng nhạt. Thân phủ vẩy lược cứng cả ở má và nắp mang. Vây lưng dài có gai cứng nhỏ. Vây ngực lớn, mút cuối vượt quá vây hậu môn. Vây đuôi rộng, mép sau lõm. Rìa sau vây đuôi đen xám.Cá phân bố từ Biển Đỏ, Đông Phi Châu sang Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, Nam Dương, Nhật và cả Việt Nam.Cá hiện được nuôi tại các quốc gia Đông Nam Á, Trung Hoa và Úc, kể cả Việt Nam (từ 2006).Emperor Red snapperCá có hình dạng hơi khác biệt với các cá khác thuộc chi Lutjanus. Thân hình bán nguyệt, lưng gồ cao. Đầu lớn dẹp một bên. Miệng rộng, chếch hai hàm dài bằng nhau: hàm trên và hàm dưới có hàm răng to và khỏe ở phía ngoài và đai răng nhỏ mọc ở phia trong. Cửa hàm trên có 2 răng nanh. Mang có lược ngắn, thô và cứng. Thân phủ vẩy lược mỏng. Vây lưng dài và liên tục; vây ngực dài và rộng: đầu mút của vây dài vượi qua điểm khởi đầu của vây hậu môn. Vây đuôi rộng, mép sau lõm sâu. Cá có thân màu hồng, bên thân có 3 vân màu đỏ xậm. Vân ở giữa bụng màu đen nâu. Các vây lưng, vây hậu môn và vây đuôi có phần nửa bên ngoài đều đen-nâu.Red Snapper lang dài từ 1 đến 1.5 m. Vùng phân bố cũng như Red Snapper đỏ và hồng bạc..
Tại Mã Lai, cá được gọi là Government bream có lẽ do hình dạng và màu sắc của vân trên thân khiến cá giống như bị cuốn bằng những dải đỏ.
Một số loài Lutjanus khác:
Cũng tại những khu vực phân bố trên, kể cả vùng biển Việt Nam còn có những loại Red Snapper khác như:
Ludjanus vitta: Red Snapper dải đen, Red Snapper bí. Brown stripe snapper, Striped red snapper. Cá dài 1-1.7m. Thân màu nâu nhạt. Từ sau mắt có 1 vân đen chạy dọc suốt thân đến gốc vây đuôi. Bên thân có một vết đen lớn, hình bầu dục nằm ngay dưới đoạn tiếp giáp của tia cứng và tia mềm của vây lưng. Mỗi vẩy có 1 chấm đen hình que.
Ludjanus malabaricus: Red Snapper mala, Red Snapper mím. Malabar red snapper. Cá nhỏ chừng 45cm-60 cm. Thân màu đỏ xậm.
Lutjanus lineolatus: Red Snapper vàng sọc mờ. Bigeyed snapper. Thân hình bán nguyệt như Red Snapper lang, lưng gồ cao. Thân màu hồng, bên thân có 3 vân màu đỏ xậm. Cá nhỏ, chừng 20-30 cm.
Ludjanus johni: Red Snapper vẩy ngang. John’s snapper. Thailand snapper. Vivaneau ziebelo. Thân phủ vẩy lược lớn, xếp thành hàng dọc đều trên thân. Mỗi vẩy có một chấm đen nhỏ. Thân màu nâu nhạt. Cá nhỏ 10-25 cm.
– Red Snapper trong vùng biển Đại Tây Dương:
Trong vùng biển Đại Tây Dương, dọc duyên hải Mỹ Châu có những loài snapper đáng chú ý như:

Red Snapper vảy ngang Lutjanus johni
Ludjanus purpureus: Southern Red snapper, Vivaneau rouge, Pargo colorado.
Thân cá hình bầu dục. Đầu ngắn, lưng uống cong ngay từ sau mắt. Mõm ngắn và tù. Mắt to. Vây lưng có 10 gai cứng và 14 tia mềm. Vây hậu môn ở cá (con dài trên 5cm) nhọn, có 3 gai và 6 tia mềm. Vây ngực dài. Vây đuôi hình bán nguyệt, phần trên dài hơn phần dưới. Thân phủ vẩy xếp thành hàng. Cá có lưng và phần thân trên màu đỏ xậm; hai bên thân và bụng màu hồng nhạt. Vây thường màu hồng đỏ, đôi khi có những đốm xậm nơi đáy.
Cá dài đến 1m, trung bình cỡ 65 cm. Trọng lượng tối đa 10 kg. Chúng sống nơi vùng biển có độ sâu 30-160m nơi có nhiều hốc đá. Mùa đẻ trứng vào các tháng Xuân và Hè. Tuổi thọ từ 12-18 năm.
Cá phân bố trong vùng biển nhiệt đới Tây Đại Tây Dương: trong khu vực Caribbean, Cuba xuống đến vùng Đông-Bắc Brazil.
Ludjanus campechanus: Northern Red snapper, Gulf red snapper. Pháp: Vivaneau campêche, vivaneau jaune-bleu. Tây Ban Nha: Pargo colorado.
Cá có thân và vây màu hồng-đỏ, bụng nhạt hơn. hai bên thân có những đốm xậm. Đầu to, mắt nhỏ màu đỏ, mõm hơi nhọn. Cá có thể dài đến 1m, trung bình khoảng 40 cm, nặng trung bình 9-10 kg, có thể đến 24 kg. Cá có thể sống đến trên 40 năm. Phân bố trong vùng biển Trung Mỹ và cả trong vùng Vịnh Mexico. Cá được xem là cá ‘câu, thể thao’, và thịt ngon. Mỗi năm Hoa Kỳ đánh bắt khoảng 4 ngàn tấn. Để bảo vệ cá, chính phủ đã ấn định số lượng được phép đánh bắt.
Red Snapper trong vùng biển California:
Trong vùng biển California, nhất là vào những năm nước biển ‘ấm hơn’ có thể câu hoặc đánh bắt được những loại Red Snapper như
Lutjanus argentiventris: Amarillo snapper.
Cá dài khoảng 60 cm.Phần trước thân màu hồng đỏ, chuyển sang vàng nhạt nơi phần sau, lưng đôi khi màu nâu-đỏ.Vây đuôi vàng. Dưới mắt có những vệt hay đốm màu xanh lam. Cá phân bố trong vùng biển phía Nam California xuống đến Peru.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: