Sarcom mô mềm người lớn giai đoạn IVSác-côm giai đoạn IV là những khối u đã di căn vào các hạch vùng hoặc đã lan sang các cơ quan ở xa. Loại sác-côm mô mềm có khuynh hướng lan vào hạch bao gồm sác-côm tế bào hoạt dịch, sác-côm dạng biểu mô và sác-côm cơ vân. Đối với sác-côm giai đoạn IV, việc kiểm soát khối u nguyên phát tại chỗ có lẽ là nhờ phẫu thuật cắt bỏ u đến mép mô lành, vét hạch khi thích hợp và chiếu xạ ngoài sau phẫu thuật. Đối với u mô đệm ống tiêu hóa các bằng chứng ban đầu cho thấy imatinib mesylat, một chất ức chế tyrosin kinase mới, có tác dụng lên các khối u còn lại ở những bệnh nhân có khối u không thể cắt bỏ hoặc đã di căn.Các lựa chọn điêu trịPhẫu thuật và vét hạch cho những bệnh nhân có hạch dương tính trên lâm sàng, chiếu xạ sau phẫu thuật vào vị trí u nguyên phát hoặc không chiếu xạ.Ở một số trung tâm, chiếu xạ có thể được thực hiện trước và sau phẫu thuật.Hóa trị liệu bổ trợ có thể được xem xét cho những bệnh nhân được tham gia vào thử nghiệm lâm sàng.Di căn nội tạngKhi có di căn xa (giai đoạn IV), phẫu thuật để điều trị khỏi bệnh có thể thực hiện cho những bệnh nhân di căn phổi có giới hạn đang được hoặc đã được phẫu thuật cát bỏ hoàn toàn khối u nguyên phát. Vai trò của hóa trị liệu bổ trợ đối với các hạch ở phổi đang được đánh giá trên lâm sàng. Giá trị của phẫu thuật đối với di căn gan chưa được xác định rõ.
Điều trị bằng doxorubicin đơn độc hoặc kết hợp với dacarbazin được coi là một trong những chế độ điều trị bằng thuốc thường được sử dụng nhất đối với sác-côm giai đoạn muộn. Khi được sử dụng đơn độc, chỉ có doxorubicin và ifosfamid cho tỷ lệ đáp ứng trên 20%; các loại thuốc ít hiệu quả hơn bao gồm dacarbazin, cisplatin, methotrexat và vinorelbin. Một thử nghiệm ngẫu nhiên với 340 bệnh nhân sác-côm giai đoạn muộn cho thấy bệnh nhân có tỷ lệ đáp ứng cao hơn (32% so với 17%, p< 0,002) và thời gian để bệnh tiến triển dài hơn (6 tháng so với 4 tháng, p<0,02) khi được điều trị bằng doxorubicin, dacarbazin, ifosfamid và mesna (MAID) so với phác đồ điều trị bằng doxorubicin và dacarbazin đơn độc. Đối với bệnh nhân nhiều tuổi, sử dụng theo thứ tự từng loại thuốc riêng rẽ mỗi lần bệnh tái phát là chiến lược điều trị hiệu quả hơn để điều trị triệu chứng nhằm làm giảm bệnh. Theo các kết quả nghiên cứu đã được công bố cho tới hiện nay thì việc dùng hóa chất liều cao (có hoặc không ghép tạng) không ảnh hưởng tới thời gian sống thêm không có bệnh hoặc thời gian sống thêm nói chung, nhưng nó vẫn đang được đánh giá lâm sàng đối với bệnh nhân di căn ở đợt bệnh ổn định hoàn toàn đầu tiên, sau khi cắt bỏ các hạch phổi hoặc đối với các khối u nguyên phát lớn không thể phẫu thuật được. Đối với u mô đệm ống tiêu hóa, các bằng chứng ban đầu cho thấy imatinib mesylat, một chất ức chế tyrosin kinase mới, có thể có tác dụng lên các khối u còn lại ở những bệnh nhân có khối u không thể cắt bỏ được hoặc đã di căn.
Các lựa chọn điều trị
Phẫu thuật cắt khối u nguyên phát kết hợp với chiếu xạ. Cắt bỏ các tổn thương ở phổi có thể tiến hành sau khi thực hiện liệu pháp dứt điểm dành cho khối u nguyên phát.
Phẫu thuật cắt khối u nguyên phát đến mép mô lành.
Nếu khối u có thể cắt bỏ nhưng không thể cắt mép mô rộng thì tiến hành chiếu xạ.
Nếu khối u không thể cắt bỏ, có thể chiếu xạ liều cao, thường kết hợp với hóa trị liệu.
Đối với khối u ở sau phúc mạc, thân và vùng đầu cổ, phẫu thuật kết hợp với chiếu xạ trước và/hoặc sau phẫu thuật và đôi khi có thể kết hợp với hóa chất.
Để làm giảm triệu chứng bệnh cho những bệnh nhân có ung thư di căn vào nội tạng không thể cắt bỏ, sử dụng hóa chất dưới đây:
doxorubicin
doxorubicin + dacarbazin
doxorubicin + ifosfamid
doxorubicin + dacarbazin + ifosfamid + mesna
Chế độ điều trị với ifosfamid liều cao.
đang được dịch, vui lòng đợi..
