Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém[sửa | sửa mã nguồn]Thái Lan và một số n dịch - Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém[sửa | sửa mã nguồn]Thái Lan và một số n Pháp làm thế nào để nói

Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém[sửa

Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém[sửa | sửa mã nguồn]
Thái Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng thực hiện cái mà các nhà kinh tế gọi là Bộ ba chính sách không thể đồng thời. Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do lưu chuyển vốn (tự do hóa tài khoản vốn). Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ. Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng. Kết quả là cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát. Chính sách vô hiệu hóa (sterilization policy) đã được áp dụng để chống lạm phát vô hình trung đẩy mạnh các dòng vốn chảy vào nền kinh tế.

Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Trong hoàn cảnh đó, Hàn Quốc lại theo đuổi một chế độ tỷ giá hối đoái neo lỏng lẻo và chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Vì thế, thâm hụt tài khoản vãng lai được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.[1]

Năm 1994, nhà kinh tế Paul Krugman của trường đại học Princeton, (lúc đó còn ở MIT), cho đăng bài báo tấn công ý tưởng về "thần kỳ kinh tế Đông Á".[2] Ông ta cho rằng: Sự tăng trưởng kinh tế của Đông Á, trong quá khứ, là do kết quả của đầu tư theo hình thức tư bản, dẫn tới sự tăng năng suất lao động. Trong khi đó, năng suất tổng nhân tố lại chỉ được nâng lên ở một mức độ rất nhỏ, hoặc hầu như giữ nguyên. Krugman cho rằng việc chỉ tăng trưởng năng suất tổng nhân tố không thôi, mà không cần đầu tư vốn, đã có thể mang lại sự thịnh vượng dài hạn. Krugman có thể được nhiều người coi như một nhà tiên tri sau khi khủng hoảng tài chính lan rộng, tuy nhiên chính ông ta cũng đã từng phát biểu rằng ông ta không dự đoán cơn khủng hoảng hoặc nhìn trước được chiều sâu của nó.

Các dòng vốn nước ngoài kéo vào[sửa | sửa mã nguồn]
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho tính thanh khoản toàn cầu trở nền cao quá mức. Các nhà đầu tư ở các trung tâm tiền tệ nói trên của thế giới tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.[3]

Ngoài ra, những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bất chấp mạo hiểm để đi vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bắt chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro. (Hiện tượng thông tin phi đối xứng dẫn tới lựa chọn nghịch và rủi ro đạo đức.)

Tấn công đầu cơ và rút vốn đồng loạt[sửa | sửa mã nguồn]
Nguyên nhân trực tiếp của khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 là những cuộc tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á.

Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta không còn tin rằng chính phủ đủ khả năng giữ nổi tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành tấn công tiền tệ châu Á.[4] Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.[5]

Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ không nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến nối cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.

Ngoại trưởng 10 nước ASEAN lúc đó tin rằng, việc liên kết các hệ thống tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc các nền kinh tế ASEAN. Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang Jaya, Malaysia đã thông quan một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu goi các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm bảo vệ và tăng cường lợi ích của ASEAN trong giai đoạn này.[6] Ngẫu nhiên là trong cùng ngày này, các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác động của khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp Dàn xếp cho vay mới. Trước đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng Tài chínhAPEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo như Tuyên bố chung, các bên đã không thể nhân đôi được Quỹ tài chính phục vụ cho Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy, cuộc khủng hoảng có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp kịp thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.

Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.[7]
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Pháp) 1: [Sao chép]
Sao chép!
La faiblesse macroéconomique de la plate-forme [page page source |]Thaïlande et certains pays du sud-est asiatiques ont tenté de mettre en oeuvre ce que les économistes appelés la politique ne peut pas en même temps. Ils ont juste a fixé la valeur de leur monnaie au Dollar américain, a permis la liberté de circulation des capitaux (libéralisation du compte de capital). La croissance économique du sud-est asiatique rapidement dans les années 1980 et la première moitié des années 1990 a créé une pression grandissante Prix sur la monnaie locale. Pour défendre le taux de change fixe, la Banque centrale de l'Asie du sud-est ont fait de relâchement de la politique monétaire. Le résultat est l'augmentation de la masse monétaire due à la pression de gonflage. Désactiver le politique (politique de stérilisation) a été appliquée au combattre inflation prévisible de faciliter la circulation des capitaux dans l'économie.Dans les années 1990, Corée dispose d'un contexte macroéconomique relativement bien, sauf le Won coréen au Dollar américain en escale au cours de la période de l'année 1987. Cela rend le compte courant de miné en Corée du Sud Corée du Sud prix sur les marchés internationaux des matières premières à l'exportation. Dans ce contexte, Corée du Sud poursuivait encore une libéralisation de politiques et de la capitale compte de taux de change ancre lâche. Par conséquent, le déficit des comptes courants est compensé à nouveau par les banques du pays à des emprunteurs étrangers qui sont pour la plupart de dette à court terme et des risques de dette non couverte. [1]En 1994, économiste Paul Krugman de l'Université de Princeton, (puis au MIT), publié des articles attaquant l'idée du « Miracle économique asiatique ». [2] il a dit : la croissance économique de l'Asie, dans le passé, grâce à l'investissement sous forme de capital, a entraîné l'augmentation de la productivité du travail. Pendant ce temps, la productivité totale des facteurs sont élevés dans une très faible mesure, ou presque la même chose. Krugman a déclaré que la croissance de la productivité totale des facteurs seule, sans l'investissement de capitaux, a réussi à apporter la prospérité à long terme. Krugman peut être considéré comme un prophète après la crise financière étendue, cependant il a déjà déclaré qu'il n'a pas anticiper les crises ou regarder vers l'avant pour être la profondeur de celui-ci beaucoup de gens.Le capitaux étrangers se jette dans [page | éditer le code source]Relâchement de la politique monétaire et la libéralisation du secteur financier aux Etats-Unis, l'Europe et le Japon dans les années 1980 a entraîné un niveau global de liquidité retour élevé trop. Les investisseurs dans la monnaie indiquée sur le centre du monde a cherché à modifier son portefeuille immobilier en détournant le capital étranger. Pendant ce temps, les pays asiatiques en arrière une politique de libéralisation du compte de capital. Taux d'intérêt dans les pays asiatiques est plus élevé que dans les pays développés. Ainsi, les flux de capitaux internationaux ont été massivement qui se jettent dans les pays asiatiques. [3]En outre, la promotion des investissements du gouvernement et la protection du gouvernement pour les institutions financières également apportés à la société en Asie malgré les risques pour les emprunteurs de la banque lorsque les départs de la Banque hypothécaire risque à des emprunteurs étrangers qui sont pour la plupart de dette à court terme et ne pas de couverture de la dette. (phénomène d'asymétrie d'informations conduisant à des choix et risques moraux).Attaquer la spéculation et lot de retrait de capitaux [page | éditer le code source]La cause directe de la crise financière asiatique de 1997 est attaques spéculatives et le retrait des capitaux en vrac provenant de pays asiatiques.La cause est dit sur a révélé ensuite. Le marché immobilier de la Thaïlande a battu. Certaines institutions financières ont fait faillite. Les gens ne croient plus que le gouvernement se permettre de maintenir le taux de change fixé. Quand la faiblesse mortelle dans les économies des pays d'Asie, certains établissements-macro spéculatives ont attaqué des monnaies asiatiques. [4] les série du Conseil des fonds des investisseurs étrangers. [5]Une cause directe de la crise est que continental la crise mal gérées. Beaucoup d'économistes croire que lorsque la nouvelle monnaie est attaque, devrait les pays asiatiques doivent immédiatement flotter sa monnaie plutôt qu'essayer de protéger le pouvoir tarifs pour relier les deux réserves de devises étrangères appauvri État qu'attaque spéculative plus rend plus étirements.Pays des ministres des affaires étrangères de l'ASEAN 10 à l'époque croyaient que le lien du système monétaire serré est un effort délibéré pour consolider fermement les économies de l'ASEAN. Conférence de ministres des affaires étrangères de l'ASEAN de la 30e place à Subang Jaya, Malaisie avait adopté une déclaration conjointe le 25 juillet 1997 déclarant la profonde préoccupation et appelé à besoin les pays ASEAN emballer une coopération plus étroite pour protéger et améliorer les intérêts de l'ASEAN au cours de cette période. [6] en ce même jour est aléatoire, les banques centrales des pays plus à supporter l'impact de la crise s'est réuni à Shanghai dans l'East Asia Summit Pacific EMEAP et n'a pas pu souscrire un nouveau prêt arrangement des mesures. Un an plus tôt, les ministres des finances de ces pays a également assisté le ministre de la Conférence la 3ème chínhAPEC à Kyoto, au Japon, le 17 mars 1996, et selon la déclaration commune, les parties ont été incapables de reproduire le financier sert de Fondation pour l'accord général sur les mécanismes de crédit et financiers en cas d'urgence. Alors que la crise peut être considérée comme un échec dans la construction de capacité convenable dans le temps, n'a pas empêché les sollicitations monétaires.Certains économistes critiqué l'exercice politique de serrage est appliqué par le FMI dans les pays en crise comme rendant la crise plus grave. [7]
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Pháp) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Plate-forme de faiblesse macroéconomique [modifier | Modifier la source]
Thaïlande et certains pays d'Asie du Sud-Est ont essayé de mettre en œuvre ce que les économistes politique dite Trio peuvent pas simultanément. Ils avaient fixé sa valeur de change du dollar américain, a permis à la libre circulation des capitaux (libéralisation du compte capital). La croissance économique d'Asie du Sud dans les années 1980 et la première moitié de 1990, a mis la pression inflationniste sur la monnaie nationale. Pour défendre un taux de change fixe, la banque centrale en Asie du Sud ont fait assouplissement monétaire. Le résultat est l'augmentation de la masse monétaire provoque des pressions inflationnistes. Politique désactivé (politique de stérilisation) a été adoptée pour lutter contre l'inflation invisible promouvoir les flux de capitaux dans l'économie. Dans les années 1990, la Corée avait fondation de macroéconomique relativement bonne étrangère Won sud-coréen a augmenté constamment, sauf avec le dollar américain pour la période après 1987. Cela rend le compte courant affaibli en raison des prix à l'exportation de la Corée du Sud Corée sur les marchés internationaux des matières premières hausse . Dans ce contexte, la Corée a poursuivi un régime de la politique d'ancrage du taux de change libéralisation lâche et du compte de capital. Ainsi, le déficit du compte courant a été compensée par les banques du pays à des emprunteurs étrangers qui sont la plupart du temps la dette à court terme et de la dette des risques non couverts. [1] En 1994, la situation économique économique de l'université de Princeton Paul Krugman, (qui était aussi au MIT), un article attaquant l'idée de «miracle économique asiatique". [2] Il a dit que la croissance économique de l'Est Asie, dans le passé, en raison de l'investissement dans la forme de capital, conduisant à une augmentation de la productivité du travail. Pendant ce temps, la productivité totale des facteurs est soulevée seulement dans une très faible mesure, ou presque inchangée. Krugman a déclaré que la seule croissance de la productivité totale des facteurs seul, sans l'investissement de capital, a été en mesure d'apporter la prospérité à long terme. Krugman peut être beaucoup comme un prophète après la propagation de la crise financière, mais il a lui-même dit qu'il ne prévoit pas la crise ou regardé avant sa profondeur. Le entrées de capitaux étrangers traînent sur ​​[modifier | Modifier la source] politique monétaire accommodante et la libéralisation financière aux États-Unis, en Europe et au Japon dans les années 1980 a conduit à une liquidité mondiale devient trop élevée. Les investisseurs dans le centre monétaire précitée du monde cherche à modifier son portefeuille d'actifs par le transfert de capitaux à l'étranger. Pendant ce temps, les pays asiatiques à mettre en œuvre des politiques de libéralisation du compte capital. Les taux d'intérêt dans les pays asiatiques est plus élevé que dans les pays développés. Par conséquent, les flux de capitaux internationaux coulaient massivement dans les pays asiatiques. [3] En outre, la promotion de l'investissement par le gouvernement et la protection implicite du gouvernement pour les institutions financières ont également contribué que les entreprises en Asie malgré emprunteurs à risque aux banques quand les banques commencent prêts hypothécaires à risque d'aller à l'étranger, mais la plupart du temps les risques de la dette à court terme et la dette non couvertes. (. Le phénomène d'asymétrie d'information conduisant à la sélection négative et l'aléa moral) la spéculation offensif et le retrait de capital simultanément [modifier | Modifier la source] La cause directe de la crise financière asiatique en 1997, les attaques-Orient comme spéculatives et le retrait simultané des pays asiatiques. Les raisons sous-jacentes mentionnées ci-dessus et également divulgués. Marché de l'immobilier en Thaïlande était cassé. Certaines institutions financières font faillite. Les gens ne croient plus que le gouvernement se permettre de maintenir leurs taux de change fixes. Lors de la détection de la faiblesse fatale dans les économies des pays d'Asie, une institution de couverture macro menée attaque devises asiatiques. [4] Les investisseurs étrangers en retrait de masse out. [5] Une cause plus immédiate de la crise est la faiblesse de la capacité de gestion de crise. Beaucoup d'économistes disent que la nouvelle monnaie sous l'attaque, devrait les pays asiatiques à flotter sa monnaie immédiatement plutôt que d'essayer de défendre le taux de change pour arriver épuisé toutes Etat réserves de change ce qui rend l'attaque encore plus prolongée spéculation. ministres des Affaires étrangères des 10 pays de l'ASEAN à l'époque croyaient que lier le système monétaire restrictive est une tentative prudente de consolider les économies de l'ASEAN. Réunion des ministres des Affaires étrangères de l'ASEAN 30 endroit à Subang Jaya, Malaisie a adopté une déclaration conjointe le 25 Juillet 1997, qui déclarait profonde préoccupation et a appelé les pays de l'ASEAN à coopérer plus étroitement dans le but de protéger et promouvoir les intérêts de l'ASEAN dans cette période. [6] est aléatoire dans la même journée, les banques centrales de la plupart des pays touchés par la crise se sont réunis à Shanghai à Summit Asie de l'Est Pacifique EMEAP, et n'a pas réussi à donner une mesure de nouvel accord de prêt. Un an plus tôt, les ministres des Finances de ces pays ont également assisté à la réunion ministérielle de Ressources 3ème chinhAPEC à Kyoto, au Japon le 17 Mars, 1996, et selon une déclaration commune, les parties ont pas être mis en miroir par des fonds financiers adressent à l'Accord général sur le prêt et mécanisme de financement en cas d'urgence. Par conséquent, la crise peut être considérée comme un échec à développer les capacités voulues dans le temps, n'a pas réussi à empêcher la manipulation de la monnaie. Certains économistes ont critiqué les politiques financières resserrées FMI est appliqué dans les pays en crise fait qu'aggraver la crise. [7]



















đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: