Thực tế không phải khi nào cũng phát sinh vấn đề giống nhau, cũng không phải trong kho cơ sở dữ liệu luôn sẵn sàng cung cấp thông tin chính xác về các lô hàng xuất nhập khẩu, về chủ hàng và dự đoán trước được tất cả tình hình sắp diễn ra. Vì vậy, ngoài những thông tin có sẵn trong hệ thống cơ sở dữ liệu tuân thủ, căn cứ vào tình hình thực tế và thông tin do khách hàng khai báo khi làm thủ tục hải quan, các đơn vị chủ động triển khai lực lượng, trang thiết bị vật chất, bố trí công việc để đạt được hiệu quả cao nhất. Đồng thời, khi phát hiện thêm các yếu tố tuân thủ mới phát sinh cần báo cáo ngay lên Cục Hải quan cấp chủ quản để cập nhật, bổ sung dữ liệu thông tin, làm cơ sở xác định tuân thủ cho các lô hàng tiếp theo. Nhiệm vụ cụ thể ở cấp này là:Tiếp nhận đầy đủ và sử dụng thông tin từ hệ thống cơ sở dữ liệu của Cục Hải quan quản lý trực tiếp.Căn cứ vào quy trình thủ tục hải quan hiện hành, kết hợp với các nguồn thông tin khác của Chi cục để lựa chọn và quyết định kiểm tra hải quan.Báo cáo Cục Hải quan quản lý trực tiếp kịp thời toàn bộ tình hình quản lý, sử dụng và các vướng mắc phát sinh trong quá trình vận hành hệ thống quản lý tuân thủ.In collaboration with agencies, local units managed to collect information management compliance service according to hierarchy.2.4. management practices in compliance with customs procedures for export and import goods.Not when there are customs law customs 2063 to make the assessment of compliance in its management. The customs authority before performing the analysis reviews key projects, key items or to check key enterprises, monitoring has been implementing compliance management. However the implementation of this method at that time not yet into the principles, not according to a system should had limited effects. Sau khi có Luật Hải quan năm 2005 cũng như các văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ của ngành Hải quan, quyền hạn trách nhiệm được thực hiện các biện pháp kiểm tra, giám sát hải quan của công chức hải quan, của lãnh đạo Hải quan các cấp dựa trên sự công nhận các rủi ro phát sinh trong hoạt động Hải quan, các cơ quan hải quan đã quy định những nguyên tắc cơ bản về quản lý tuân thủ, trong đó có phân biệt các mức độ tuân thủ khác nhau và các cách thức xử lý tuân thủ khác nhau. Chẳng hạn phân loại hình thức kiểm tra thực tế hàng hóa xuất nhập khẩu gồm: miễn kiểm tra, kiểm tra xác suất không quá 10%, kiểm tra thực tế toàn bộ.Như vậy, từ năm 2005 ngành Hải quan đã bước đầu áp dụng nguyên tắc quản lý tuân thủ nhưng với mức độ đơn giản.Tuy nhiên, việc thực hiện vẫn dựa trên nguồn thông tin hạn chế, cục bộ, dựa rất lớn vào ý chí chủ quan của người trực tiếp thực hiện như chi cục trưởng chi cục Hải quan cửa khẩu, công chức kiểm tra hồ sơ, trong khi sự hỗ trợ của hệ thống thông tin quản lý còn hạn chế, trong khi đó trách nhiệm của các công chức này trước pháp luật là rất lớn nên thực tế lượng hàng hóa xuất nhập khẩu phải kiểm tra hầu như không giảm đáng kể. Do những quy định của Luật Hải quan 2005 còn một số hạn chế, chưa đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản lý tuân thủ và tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại đầu tư nên quá trình triển khai quản lý tuân thủ trong thực tế còn phân tán, chưa đồng bộ. Sau khi có Quy chế áp dụng quản lý tuân thủ trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thương mại, việc quản lý tuân thủ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đã thống nhất dựa trên sự đánh giá tuân thủ về vi phạm các quy định về khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, hồ sơ, chứng từ khai hải quan, trị giá hàng, phân loại hàng hóa, hàng hóa thuộc diện quản lý theo giấy phép, hạn ngạch và quản lý chuyên ngành... Tổng cục Hải quan đã xây dựng được bộ tiêu chí quản lý tuân thủ phục vụ phân luồng tự động dựa trên cơ sở phân các tiêu chí thành hai loại gồm các tiêu chí ưu tiên, các tiêu chí đánh giá tuân thủ. Tổng cục Hải quan đã sử dụng hệ thống phân tích, đánh giá tuân thủ để hỗ trợ phân luồng, lựa chọn đối tượng kiểm tra trên cơ sở hồ sơ tuân thủ được cập nhật trong toàn hệ thống. Đến nay đã thiết lập bộ tiêu chí quản lý tuân thủ, trong đó mức độ tuân thủ của từng tiêu chí được cho điểm dựa trên thực tế hoạt động của ngành, trên cơ sở đó phân tích các tuân thủ sao cho khi chủ hàng đến làm thủ tục hải quan thì đã có những đánh giá về mức độ tuân thủ để áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp.Tuy nhiên đối với giai đoạn đầu thực hiện Luật, khi chưa có đủ thông tin cho từng tiêu chí, chương trình xử lý và hạ tầng cơ sở chưa đảm bảo, việc áp dụng quản lý tuân thủ có thể thực hiện theo cách phân loại doanh nghiệp dựa trên các tiêu chí như: doanh nghiệp lớn, kinh doanh ổn định, thương hiệu lớn, doanh nghiệp ít có khả năng vi phạm và nếu có thì khả năng khắc phục; doanh nghiệp không lớn nhưng xuất nhập khẩu thường xuyên và qua thời gian dài hoạt động ít có hành vi vi phạm nghiêm trọng; doanh nghiệp chuyên sản xuất, xuát khẩu nông thủy hải sản… Việc áp dụng chế độ phân loại doanh nghiệp như trên phải đi kèm theo hệ thống kiểm tra sau thông quan hoạt động tốt, đồng thời có hệ thống thông tin tình báo tốt để kịp thời phát hiện các dấu hiệu lợi dụng chế độ ưu tiên để vi phạm pháp luật.Bộ phận phân tích rủi ro đã bước đầu tiến hành phân loại nguyên nhân rủi ro theo các định lượng bao nhiêu % tuân thủ do doanh nghiệp, bao nhiêu % tuân thủ do quy trình nghiệp vụ quản lý, bao nhiêu % tuân thủ do từ phía cán bộ, công chức trong ngành hải quan… Bộ phận đánh giá rủi ro đã bước đầu tổng hợp thông tin xử lý để đưa ra các thông tin cảnh báo về số lần vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, quy mô và mức độ của các lần vi phạm; từ đó ước lượng thiệt hại có thể xảy ra cho từng loại rủi ro. Cơ quan hải quan đã xây dựng và phát triển hệ thống thu thập, xử lý dữ liệu điện tử nhằm phục vụ xác định, đánh giá tuân thủ trong hoạt động nghiệp vụ của ngành. Hệ thống này hoạt động thường xuyên, liên tục 24/24 giờ, 7 ngày/tuần; đảm bảo an ninh, an toàn dữ liệu. Trên cơ sở hệ thống thông tin đã hình thành nhân viên hải quan dựa trên kết quả thu thập, phân tích, đánh giá thông tin về: Tổ chức, cá nhân xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải; các tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài là đối tác hoặc liên quan đến hoạt động này; hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; xuất xứ hàng hóa nhập khẩu; nơi xuất/nhập khẩu hàng hoặc địa điểm trung chuyển hàng đến/từ Việt Nam; chính sách quản lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu; chính sách ưu đãi về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, về hạn ngạch thuế quan Việt Nam hoặc giữa Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc khu vực trên thế giới; quy trình thủ tục hải quan và các hoạt động liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; trị giá hải quan; phân loại hàng; thanh toán; phương thức vận chuyển để quyết định hình thức kiểm tra hải quan cụ thể.Các đơn vị trực thuộc Bộ Tài chính, các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan bước đầu có trách nhiệm phối hợp, trao đổi, chuyển giao thông tin phục vụ áp dụng quản lý tuân thủ trong quản lý nhà nước về hải quan nhưng chất lượng thông tin chưa cao.
Tổng cục Hải quan đã chỉ đạo các đơn vị nghiên cứu, đề xuất mô hình và phương án triển khai quản lý tuân thủ. Việc phân định mức độ tuân thủ của các doanh nghiệp để xác định hình thức kiểm tra hợp lý đã được vận dụng phổ biến ở các cơ quan kiểm soát hải quan. Ngành hải quan đã xây dựng bước đầu cơ sở dữ liệu doanh nghiệp phục vụ việc lựa chọn doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan để xác định những nội dung ưu tiên khi làm thủ tục hải quan; lựa chọn doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan để chỉ kiểm tra sơ bộ hồ sơ hải quan; quy định tiêu chí rủi ro để xác định lô hàng cần kiểm tra; sử dụng hệ thống máy tính để xác định lô hàng cần kiểm tra ngẫu nhiên; xác định đối tượng được ân hạn thuế; đánh giá phân tích phân loại thông tin để xác định đối tượng và lập kế hoạch kiểm tra sau thông quan…
đang được dịch, vui lòng đợi..