Thứ hai, đối với người phải thi hành là tổ chức, theo quy định của điều luật nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức mà không có tài sản liên quan đến việc thi hành tại Việt Nam thì phải có trụ sở chính tại Việt Nam. Như vậy, có thể hiểu đối với chủ thể là doanh nghiệp thì điều luật chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp Việt Nam mà không áp dụng đối với doanh nghiệp nước ngoài mặc dù họ có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam. Quy định này bên cạnh vướng mắc về tài sản liên quan đến việc thi hành như đã phân tích ở trên còn làm phát sinh vấn đề có những bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài tuyên doanh nghiệp Việt Nam thắng trong một vụ tranh chấp với doanh nghiệp nước ngoài về một nghĩa vụ tài sản phát sinh từ quan hệ hợp đồng liên quan đến hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện của doanh nghiệp nước ngoài đó tại Việt Nam nhưng không thể yêu cầu thi hành tại Việt Nam được vì doanh nghiệp nước ngoài không có trụ sở chính tại Việt Nam mặc dù doanh nghiệp nước ngoài có tài sản tại Việt Nam. Muốn được thi hành bản án, doanh nghiệp Việt Nam phải nộp đơn yêu cầu thi hành ở nước đã tuyên bản án nghĩa là mức độ phức tạp của vấn đề sẽ tăng lên rất nhiều. Trong trường hợp này pháp luật Việt Nam tự xác định thẩm quyền của Tòa án Việt Nam nhưng rõ ràng quy định của pháp luật Việt Nam đã vô tình tước bỏ quyền tự bảo vệ lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp Việt Nam. Thực tế cho thấy có rất nhiều trường hợp doanh nghiệp nước ngoài có chi nhành, văn phòng đại diện tại Việt Nam nhưng doanh nghiệp Việt Nam (là bên được thi hành) không thể nộp đơn yêu cầu thi hành bản án của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam vì vướng quy định của điều luật này.
đang được dịch, vui lòng đợi..
