2.3. Từ bỏ điều tiết kinh tế trực tiếpỞ cấp độ kinh tế vĩ mô, từ bỏ đi dịch - 2.3. Từ bỏ điều tiết kinh tế trực tiếpỞ cấp độ kinh tế vĩ mô, từ bỏ đi Pháp làm thế nào để nói

2.3. Từ bỏ điều tiết kinh tế trực t

2.3. Từ bỏ điều tiết kinh tế trực tiếp

Ở cấp độ kinh tế vĩ mô, từ bỏ điều tiết kinh tế trực tiếp là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu, đối với tất cả các Chính phủ kể từ khi kết thúc thời kỳ độc quyền lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do ( LDP) năm 1993. Thủ tướng Chính phủ Hosokawa lúc đó đã công bố từ bỏ điều tiết như là một phương cách nhằm tiếp thêm sức sống cho nền kinh tế và làm thỏa mãn các áp lực từ phía Hoa Kỳ đối với một nền kinh tế mở. Người kế nhiệm ông Tsutomu Hata cũng cam kết xúc tiến bãi bỏ điều tiết và phi tập trung hóa. Thủ tướng Murayama thậm chí đã cam kết công khai trước Chính phủ của mình rằng sẽ theo đuổi đến cùng chính sách này. Có thể nói, việc kêu gọi bãi bỏ điều tiết đã thu được sự ủng hộ rộng lớn trong giới truyền thông, thông tin đại chúng, các tầng lớp dân cư, các nhà kinh tế có tầm ảnh hưởng([1]). Các nhà bình luận kinh tế khẳng định sự từ bỏ điều tiết là điều cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các điều chỉnh trong cơ cấu công nghiệp Nhật Bản và làm cho ngành dịch vụ có sức cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, đến khi tiến hành thì Chính phủ vẫn gặp phải sự phản kháng của nhóm quan liêu và nhóm lợi ích .
Tháng 3 năm 1995, Chính phủ của Murayama thực thi chương trình cải tổ kinh tế áp dụng trong 5 năm. Đây là chương trình được trông đợi từ rất lâu. Các nhà lãnh đạo của Nhật Bản cũng như Chính phủ Hoa Kỳ đã phản ứng lại với chương trình này. Theo họ, cho dù sáng kiến này bao gồm hơn 1000 phương pháp để bãi bỏ điều tiết nhưng hầu hết các phương pháp này được hâm nóng qua các đề xuất đã được thông báo từ trước. Đối với rất nhiều các hạng mục quan trọng thì Chính phủ lại không chỉ rõ được lịch trình triển khai cụ thể. Mặc dù chương trình cải tổ chấp nhận luật nhà nước là một chế tài pháp lý bắt buộc nhưng không buộc Chính phủ phải cam kết xem xét lại tất cả hơn 10.000 quy phạm pháp luật hiện hành. Các quy phạm pháp luật về giá cả ở một số ngành công nghiệp chủ yếu như hàng không, viễn thông và bảo hiểm phi nhân thọ vẫn tiếp tục duy trì hiệu lực. Và cũng không có cam kết nào nhằm rà soát lại luật điều chỉnh áp dụng cho các cửa hàng bán lẻ lớn. Vấn đề đặt ra đối với nỗ lực bãi bỏ điều tiết đó là tình trạng lỏng lẻo của nền chính trị và sự lãnh đạo yếu kém của Chính phủ Liên minh lâm thời. Như một hệ quả tất yếu, các giải pháp cụ thể được sử dụng trước đó đã tự sụp đổ. Do các quan chức Chính phủ thường là những người đứng đằng sau việc ban hành các điều luật nên việc từ bỏ điều tiết là rất khó khăn. Bởi như đã biết, các bộ luật này giúp duy trì quyền lực của họ. Và điều này trở thành một lực cản đối với việc thúc đẩy thực thi một chương trình cải tổ có hiệu quả.
Bất chấp tất cả, một dấu hiệu tích cực đã xuất hiện trong thời kỳ cuối của quá trình từ bỏ điều tiết. Bắt đầu từ năm 1995, Chính phủ Nhật Bản quyết định sẽ xem xét và rà soát các văn bản quy phạm nếu có ý kiến đề xuất từ phía khu vực tư nhân. Hơn nữa, Chính phủ Nhật Bản cam kết sẽ công bố Sách trắng về bãi bỏ điều tiết hàng năm. Qua đó có thể đánh giá được tác động của việc điều chỉnh các kế hoạch và tác động của việc bãi bỏ điều tiết trực tiếp của Chính phủ đối với nền kinh tế. Mặc dù các kết quả cụ thể chỉ có thể có được sau một thời gian dài nhưng sự minh bạch trong quá trình điều tiết của nhà nước có vẻ như đã được cải thiện. Và sự minh bạch rõ ràng hơn có thể sẽ tạo điều kiện cho một chương trình bãi bỏđiều tiết trên diện rộng. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi có một động lực chính trị thúc đẩy cải tổ.
Trong khi tiến độ của việc bãi bỏ diễn ra chậm chạp thì người tiêu dùng Nhật Bản đã phải đối mặt với một sự thay đổi lớn trong ngành dịch vụ bán lẻ. Sự suy thoái kéo dài đi kèm với sự khác biệt về giá cả nội địa và nước ngoài đã biến người Nhật trở thành vật hy sinh. Các cửa hàng chiết khấu được xây dựng tại các khu vực xa xôi nhằm cạnh tranh với các cửa hàng có quy mô lớn nhưng không chiết khấu trước đây. Lợi dụng sự lên giá của đồng Yên, các cửa hàng chiết khấu đã phá vỡ mạng lưới phân phối truyền thống, qua đó họ muốn dành cho người tiêu dùng giá cả thấp hơn. Đi kèm với điều đó, người tiêu dùng sẽ không thể có dịch vụ cá nhân tập trung và dịch vụ sau bán hàng kèm theo. Chính cuộc cách mạng trong ngành bán lẻ và thái độ dễ dãi của người tiêu dùng tạo ra cơ hội cho các nhà sản xuất nước ngoài bán được nhiều hàng hóa hơn trên thị trường Nhật Bản. Nhưng phần lớn sản phẩm bán ra bởi các nhà bản lẻ này lại có thể là các sản phẩm được sản xuất bởi chính các công ty con của các tập đoàn sản xuất Nhật Bản ở các quốc gia có chi phí lao động thấp, như các công ty ở các nước Đông Nam Á và Trung Quốc.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Pháp) 1: [Sao chép]
Sao chép!
2.3. donner direct réglementaireAu niveau macroéconomique, la réglementation économique directe de donner est une priorité politique, comme pour tous les gouvernements depuis la fin de la période de la conduite exclusive du Parti démocratique libéral (LDP) en 1993. Premier ministre Hosokawa avait annoncé la levée de règlement comme un moyen d'ajouter de vitalité à l'économie et pour répondre à la pression américaine pour une économie plus ouverte. Son successeur Tsutomu Hata est également engagé à promouvoir l'abolition de la réglementation et non centralisée. Premier ministre Murayama a même publiquement avant la mise en gage son gouvernement qui se poursuivra jusqu'à la fin de cette politique. On peut dire que l'appel pour l'abolition du règlement a gagné le large soutien dans les médias, la communication de masse, les habitants, l'influent économiste ([1]). Les commentateurs économiques affirment que la renonciation du règlement est essentielle pour créer les conditions pour l'ajustement de la structure industrielle au Japon et faire de l'industrie des services plus concurrentiels. Cependant, lorsque effectuée, le gouvernement persiste des groupes de résistance bureaucratique et groupes d'intérêt.En mars 1995, gouvernement de Murayama mis en place de programme de réformes économiques adoptée en 5 ans. C'est le programme prévu pour si longtemps. Les dirigeants du Japon et le gouvernement des Etats-Unis a répondu avec ce programme. Selon eux, si cette initiative comprend plus de 1000 méthodes en vue d'abroger le règlement, mais la plupart des méthodes est proposée sur le réchauffement de la planète a été annoncée au préalable. Pour beaucoup de points importants, le gouvernement ne préciserait pas le calendrier de déploiement particulier. Bien que la perestroïka a accepté Loi de l'État est un sanctions juridiques obligatoires mais n'oblige pas le gouvernement à s'engager à examiner tous les juridique actuel plus de 10 000. La Loi sur les prix dans certains secteurs majeurs tels que l'aérospatiale, des télécommunications et des assurances continue à rester en vigueur. Ni a aucun engagement en vue de réviser l'ajustement de droit appliqué aux magasins de grande distribution. La question pose en annulation qu'effort réglementaire est la condition lâche de la politique et la direction du gouvernement provisoire. Par conséquent, des solutions spécifiques sont utilisées avant qui s'est effondré. Par le gouvernement sont souvent ceux qui Placez-vous derrière l'adoption de la loi devraient réglementer l'abandon est très difficile. Par comme le savent déjà, la Loi permet de maintenir leur pouvoir. Et cela devient un boulet pour la promotion de la mise en œuvre d'un programme de réforme efficace.Malgré tout, un signe positif est apparu dans la dernière période de la renonciation de réglementer. À partir de 1995, la décision du gouvernement japonais pour examiner et contrôler les documents normatifs s'il existe des propositions du secteur privé. En outre, le gouvernement japonais s'est engagé à publier le livre blanc sur la réglementation abrogation chaque année. À travers elle peut évaluer l'impact des plans d'ajustement et l'impact de l'abolition de la réglementation directe du gouvernement en ce qui concerne l'économie. Bien que le résultat spécifique pourrait seulement été après depuis longtemps mais la transparence du processus réglementaire dans l'État semble s'être améliorée. Et meilleure transparence facilitera une plage vaste bỏđiều sécrétoire. Cela n'est possible lorsqu'il y a une motivation politique pour promouvoir la réforme.Tandis que l'état d'avancement de la suppression s'est déroulée lentement, les consommateurs japonais ont été confrontés à un changement majeur dans l'industrie des services au détail. La venu de ralentissement prolongé avec les différences de prix nationaux et étrangers a transformé les Japonais dans les sacrifices d'animaux. Magasins discount sont construits dans des régions éloignées afin de rivaliser avec le magasin à grande échelle, mais ne négligez pas avant. Profitant du prix du yen, le magasin de rabais a cassé le réseau de distribution traditionnel, grâce auquel ils veulent passer aux consommateurs à des prix inférieurs. Vient avec que, consommateurs ne sera pas en mesure d'avoir un service personnalisé et une fois attaché service après-vente. La plupart des produits vendus par ces détaillants peut faire référence aux produits fabriqués par la filiale du conglomérat japonais de fabrication dans le pays, mais la révolution dans l'industrie du détail et l'attitude débonnaire des consommateurs pour créer des opportunités pour les fabricants étrangers vendu plus de marchandises sur le marché japonais. avec le prix bas du travail, comme les entreprises dans les pays du sud-est asiatique et la Chine.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Pháp) 2:[Sao chép]
Sao chép!
2.3. Từ bỏ điều tiết kinh tế trực tiếp

Ở cấp độ kinh tế vĩ mô, từ bỏ điều tiết kinh tế trực tiếp là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu, đối với tất cả các Chính phủ kể từ khi kết thúc thời kỳ độc quyền lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do ( LDP) năm 1993. Thủ tướng Chính phủ Hosokawa lúc đó đã công bố từ bỏ điều tiết như là một phương cách nhằm tiếp thêm sức sống cho nền kinh tế và làm thỏa mãn các áp lực từ phía Hoa Kỳ đối với một nền kinh tế mở. Người kế nhiệm ông Tsutomu Hata cũng cam kết xúc tiến bãi bỏ điều tiết và phi tập trung hóa. Thủ tướng Murayama thậm chí đã cam kết công khai trước Chính phủ của mình rằng sẽ theo đuổi đến cùng chính sách này. Có thể nói, việc kêu gọi bãi bỏ điều tiết đã thu được sự ủng hộ rộng lớn trong giới truyền thông, thông tin đại chúng, các tầng lớp dân cư, các nhà kinh tế có tầm ảnh hưởng([1]). Các nhà bình luận kinh tế khẳng định sự từ bỏ điều tiết là điều cần thiết nhằm tạo điều kiện cho các điều chỉnh trong cơ cấu công nghiệp Nhật Bản và làm cho ngành dịch vụ có sức cạnh tranh hơn. Tuy nhiên, đến khi tiến hành thì Chính phủ vẫn gặp phải sự phản kháng của nhóm quan liêu và nhóm lợi ích .
Tháng 3 năm 1995, Chính phủ của Murayama thực thi chương trình cải tổ kinh tế áp dụng trong 5 năm. Đây là chương trình được trông đợi từ rất lâu. Các nhà lãnh đạo của Nhật Bản cũng như Chính phủ Hoa Kỳ đã phản ứng lại với chương trình này. Theo họ, cho dù sáng kiến này bao gồm hơn 1000 phương pháp để bãi bỏ điều tiết nhưng hầu hết các phương pháp này được hâm nóng qua các đề xuất đã được thông báo từ trước. Đối với rất nhiều các hạng mục quan trọng thì Chính phủ lại không chỉ rõ được lịch trình triển khai cụ thể. Mặc dù chương trình cải tổ chấp nhận luật nhà nước là một chế tài pháp lý bắt buộc nhưng không buộc Chính phủ phải cam kết xem xét lại tất cả hơn 10.000 quy phạm pháp luật hiện hành. Các quy phạm pháp luật về giá cả ở một số ngành công nghiệp chủ yếu như hàng không, viễn thông và bảo hiểm phi nhân thọ vẫn tiếp tục duy trì hiệu lực. Và cũng không có cam kết nào nhằm rà soát lại luật điều chỉnh áp dụng cho các cửa hàng bán lẻ lớn. Vấn đề đặt ra đối với nỗ lực bãi bỏ điều tiết đó là tình trạng lỏng lẻo của nền chính trị và sự lãnh đạo yếu kém của Chính phủ Liên minh lâm thời. Như một hệ quả tất yếu, các giải pháp cụ thể được sử dụng trước đó đã tự sụp đổ. Do các quan chức Chính phủ thường là những người đứng đằng sau việc ban hành các điều luật nên việc từ bỏ điều tiết là rất khó khăn. Bởi như đã biết, các bộ luật này giúp duy trì quyền lực của họ. Và điều này trở thành một lực cản đối với việc thúc đẩy thực thi một chương trình cải tổ có hiệu quả.
Bất chấp tất cả, một dấu hiệu tích cực đã xuất hiện trong thời kỳ cuối của quá trình từ bỏ điều tiết. Bắt đầu từ năm 1995, Chính phủ Nhật Bản quyết định sẽ xem xét và rà soát các văn bản quy phạm nếu có ý kiến đề xuất từ phía khu vực tư nhân. Hơn nữa, Chính phủ Nhật Bản cam kết sẽ công bố Sách trắng về bãi bỏ điều tiết hàng năm. Qua đó có thể đánh giá được tác động của việc điều chỉnh các kế hoạch và tác động của việc bãi bỏ điều tiết trực tiếp của Chính phủ đối với nền kinh tế. Mặc dù các kết quả cụ thể chỉ có thể có được sau một thời gian dài nhưng sự minh bạch trong quá trình điều tiết của nhà nước có vẻ như đã được cải thiện. Và sự minh bạch rõ ràng hơn có thể sẽ tạo điều kiện cho một chương trình bãi bỏđiều tiết trên diện rộng. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi có một động lực chính trị thúc đẩy cải tổ.
Trong khi tiến độ của việc bãi bỏ diễn ra chậm chạp thì người tiêu dùng Nhật Bản đã phải đối mặt với một sự thay đổi lớn trong ngành dịch vụ bán lẻ. Sự suy thoái kéo dài đi kèm với sự khác biệt về giá cả nội địa và nước ngoài đã biến người Nhật trở thành vật hy sinh. Các cửa hàng chiết khấu được xây dựng tại các khu vực xa xôi nhằm cạnh tranh với các cửa hàng có quy mô lớn nhưng không chiết khấu trước đây. Lợi dụng sự lên giá của đồng Yên, các cửa hàng chiết khấu đã phá vỡ mạng lưới phân phối truyền thống, qua đó họ muốn dành cho người tiêu dùng giá cả thấp hơn. Đi kèm với điều đó, người tiêu dùng sẽ không thể có dịch vụ cá nhân tập trung và dịch vụ sau bán hàng kèm theo. Chính cuộc cách mạng trong ngành bán lẻ và thái độ dễ dãi của người tiêu dùng tạo ra cơ hội cho các nhà sản xuất nước ngoài bán được nhiều hàng hóa hơn trên thị trường Nhật Bản. Nhưng phần lớn sản phẩm bán ra bởi các nhà bản lẻ này lại có thể là các sản phẩm được sản xuất bởi chính các công ty con của các tập đoàn sản xuất Nhật Bản ở các quốc gia có chi phí lao động thấp, như các công ty ở các nước Đông Nam Á và Trung Quốc.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: