3. Dự báo tình hình nợ công ở Việt Nam trong thời gian tớiQua phân tích tình hình kinh tế cũng như tình hình nợ công và quản lý nợ công của Việt Nam ở trên, có thể thấy rằng kinh tế Việt Nam hiện đang có một số đặc điểm giống với PIIGS (các nước châu Âu có tỷ lệ nợ cao, bao gồm Hy Lạp, Ailen, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý) khi lâm vào khủng hoảng nợ công, đó là:- Tăng trưởng GDP giảm kể từ sau khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2007 đến nay (Biểu đồ 4)- Thâm hụt ngân sách và nợ công lớn, tăng mạnh từ năm 2001 đến năm 2010 - Lạm phát luôn có xu hướng tăng mạnh, luôn cao trên 8% kể từ năm 2006 đến nay. Đặc biệt, năm 2009 là thời kỳ khó khăn của Việt Nam khi tỷ lệ lạm phát đạt mức phi mã 24,4% (Biểu đồ 4). Đến năm 2010, dưới một loạt các chính sách thắt chặt tiền tệ, tỷ lệ lạm phát đã được đưa về mức 11,8%, tuy nhiên tỷ lệ này vẫn còn ở mức cao. Năm 2011, lạm phát lại tiếp tục có xu hướng tăng mạnh trở lại; kiềm chế tỷ lệ lạm phát về mức 15% là mục tiêu hàng đầu của Việt Nam trong năm 2011.- Tỷ lệ tiết kiệm ròng đã được điều chỉnh (adjusted net savings) thấp chỉ 12-14% GNI mỗi năm, thấp hơn 5% so với trung bình của châu Á (không kể các nước Trung Đông.- Ngoài những đặc điểm giống với PIIGS về kinh tế, thì nợ công của Việt Nam còn có hai vấn đề khác cần đặc biệt quan tâm, đó là:- Cơ cấu nợ nước ngoài trong tổng nợ công của Việt Nam chiếm tỉ trọng lớn và đang tăng nhanh (Bảng 3), trong khi hiệu quả đầu tư của các dự án sử dụng vốn từ các khoản nợ lại thấp.- Việt Nam sẽ dần dần bị giảm đi các khoản vay ưu đãi do trở thành nước có thu nhập trung bình; thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn, thời gian ngắn hơn. Điều này đòi hỏi việc sử dụng vốn phải hiệu quả nhiều hơn nữa, nếu không, áp lực trả nợ ngày càng lớn hơn và tác động ngay đến ngưỡng an toàn nợ công.
đang được dịch, vui lòng đợi..