Giai đoạn từ năm 2008 – 2011 có thể được xem là giai đoạn khủng hoảng thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt nam. Bước vào năm 2008, cuộc đua lãi suất bắt đầu, lãi suất qua đêm liên ngân hàng liên tục tăng chóng mặt với các kỷ lục 20%, 25% và đỉnh điểm là mức chào 27%/năm. Các ngân hàng đặc biệt là các ngân hàng nhỏ phải gồng mình tham gia cuộc đua để đảm bảo thanh khoản. Ngay lập tức, NHNN ra tay can thiệp. Chính sách tiền tệ thắt chặt được áp dụng kể cả các biện pháp hành chính như áp trần lãi suất vay và cho vay. Những chính sách này đã bộc lộ tác dụng phụ không mong muốn.Năm 2009 là năm “đường cong lãi suất” trở thành “đường thẳng” ở gần hết các kỳ hạn. Điều này thể hiện nghịch lý, các ngân hàng không khuyến khích người dân gửi tiền tại các kỳ hạn dài. Và vì lãi suất ở các kỳ hạn và tại các ngân hàng khác nhau là gần như bằng nhau, tiền gửi ở các ngân hàng nhỏ chạy về các ngân hàng lớn có uy tín cao hơn đồng nghĩa với rủi ro thấp hơn. Và hệ lụy là thanh khoản của các ngân hàng nhỏ càng căng thẳng.Bước sang năm 2010, cuộc đua lãi suất tái diễn. Các ngân hàng đua nhau phá rào lãi suất trần 12% do chính NHNN và các ngân hàng đồng thuận với nhau thiết lập nên. Để giảm căng thẳng, NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ, bơm thêm tiền vào hệ thống thông qua nghiệp vụ thị trưởng mở bằng cách chào mua giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng cho vay tái cấp vốn, hỗ trợ trực tiếp cho ngân hàng có quy mô nhỏ. Tuy nhiên, thanh khoản của hệ thống vẫn không được cải thiện nhiều.Năm 2011, cuộc đua lãi suất tiếp tục gay go. Dấu hiệu trở lại của lạm phát đã khiến NHNN quay lại với chính sách tiền tệ thắt chặt. NHNN ra thông tư áp trần lãi suất 14%/năm, hạ mục tiêu trần tăng trưởng tín dụng, giảm tăng trưởng nguồn cung tiền, yêu cầu các ngân hàng thương mại hạn chế cấp tín dụng cho những ngành không mang tính sản xuất. Đồng thời với đó, NHNN thắt chặt quản lý ngoại tệ, tiến hành độc quyền kinh doanh vàng miếng nhằm mục tiêu ổn định giá trị tiền đồng.Sau những năm liên tục loay hoay với việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng một phần, hi sinh tăng trưởng để đổi lấy ổn định vĩ mô hay cân bằng giữa tăng trưởng và lạm phát, dường như NHNN nhận ra rằng bất ổn của hệ thống ngân hàng nằm trong những ngân hàng nhỏ với hệ thống quản trị rủi ro yếu kém, và tiềm ẩn nguy cơ mất thanh khoản cao. Chính những ngân hàng yếu kém này đã nhanh chóng bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng tài chính thế giới và châm ngòi cho cuộc đua lãi suất nhằm tăng thanh khoản để tránh nguy cơ đổ vỡ. Chính động thái này đã đẩy hệ thống vào rủi ro mất thanh khoản dây chuyền và để lại những hệ lụy lớn cho nền kinh tế.Như vậy, khác với Mỹ, rủi ro hệ thống ngân hàng Việt nam không đến từ các ngân hàng có quy mô lớn (too big to fail) mà đến từ những ngân hàng nhỏ, dễ bị rủi ro thanh khoản và gây rủi ro lan truyền cho toàn hệ thống.Năm 2012 là năm NHNN được đánh giá là đã có những bước đi đúng đắn, định hướng cho công cuộc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng. NHNN ra Chỉ thị 01 nhằm phân loại các ngân hàng, điểm mặt chỉ tên các ngân hàng yếu kém, ban hành Thông tư 21 siết chặt hoạt động liên ngân hàng và bắt tay vào công cuộc tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém.
đang được dịch, vui lòng đợi..
