2.4. Cải tổ cơ cấu công nghiệp và thị trường lao độngNhằm điều chỉnh v dịch - 2.4. Cải tổ cơ cấu công nghiệp và thị trường lao độngNhằm điều chỉnh v Pháp làm thế nào để nói

2.4. Cải tổ cơ cấu công nghiệp và t

2.4. Cải tổ cơ cấu công nghiệp và thị trường lao động

Nhằm điều chỉnh việc đầu tư quá theo hướng nâng cao hiệu quả, hầu hết các công ty Nhật Bản tập trung khai thác theo chiều sâu, tức là tìm mọi cách để đổi mới quản lý và nâng cao năng suất lao động. Trên thực tế, các doanh nghiệp Nhật Bản xúc tiến cải tổ cơ cấu theo các hướng sau đây:
Một là, thay đổi trong Keiretsu và các mối quan hệ hợp đồng phụ

Cần phải nhấn mạnh rằng, sự tăng giá của đồng Yên và quá trình quốc tế hóa nền sản xuất đã và đang bắt đầu làm thay đổi các mối quan hệ giữa nhà thầu phụ và Keiretsu. Do chi phí cao và lợi nhuận thấp nên nhiều hãng lớn phải giảm số lượng các nhà cung cấp và thậm chí phải cắt bỏ các đơn đặt hàng với các nhà thầu phụ vốn được ưa chuộng. Trong khi đó, một số nhà sản xuất lớn như nhà sản xuất ôtô ít do dự hơn trong việc tìm kiếm nguồn cung cấp bên ngoài mạng lưới truyền thống của mình nhằm giảm chi phí. Đồng thời để có thể tồn tại được, các nhà thầu phụ bắt đầu tìm kiếm các cơ hội kinh doanh trong phạm vi rộng hơn với các hãng lớn khác, thậm chí cả các công ty là đối thủ của chính Keiretsu. Áp lực cắt giảm chi phí đã làm tăng khối lượng giao dịch thương mại chéo của Keiretsu.
Các công ty tận dụng việc tăng giá của đồng Yên và chi phí nhân công rẻ để mua hàng nhiều hơn từ các nhà cung cấp có cơ sở ở nước ngoài. Một loạt các công trình nghiên cứu do các nhà kinh tế thực hiện gần đây đã bắt đầu lí giải tại sao các hoạt động này lại có được các lợi ích rõ rệt như vậy. Điều dễ nhận thấy là, các công ty tìm nguồn cung từ nước ngoài sẽ quay lại với các nhà thầu phụ. Với các nhà thầu phụ, họ lại phát triển các mối quan hệ lâu dài thông qua hình thức liên doanh hoặc thông qua các cơ chế khác. Đồng thời, họ cũng nhận được sự khuyến khích đầu tư ra nước ngoài của mạng lưới nhà cung cấp truyền thống. Liên quan tới vấn đề này, nhà kinh tế học Nhật Bản nổi tiếng Dr. Yoshio Suzuki nhận xét rằng “tối đa hóa lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường diễn ra lâu hơn trong khu vực Đông Á so với phương Tây. Tương tự, ở Đông Á việc cạnh tranh lành mạnh trong một thị trường không cần thiết phải cân bằng cơ hội trong các giao dịch điểm diễn ra thường xuyên. Thỉnh thoảng trong các giao dịch cũng xuất hiện cơ hội ngang bằng, nhất là trong mối quan hệ lâu dài với những người tiêu dùng thuỷ chung”.
Hai là, điều chỉnh thị trường lao động

Bất chấp việc các phương tiện thông tin đại chúng đề cập quá nhiều tới hành động giảm sản xuất của các công ty và tăng chậm của nạn thất nghiệp, dường như Nhật Bản không gặp phải tình trạng náo động thị trường lao động như những năm 1950. Quá trình điều tiết diễn ra vào thời điểm khi mà thị trường lao động Nhật Bản đã không còn kiểm soát được nữa. Không giống như các nước Tây Âu, Nhật Bản phải chấp nhận cắt giảm sản xuất trong điều kiện ảnh hưởng đến chính trị và xã hội thấp nhất đến mức có thể. Tỉ lệ thất nghiệp đã tăng từ 2,1% năm 1990 lên đến 3,2% vào tháng 4 năm 1995. Các dự đoán bi quan hơn cho thấy, tỉ lệ thất nghiệp có thể vượt quá 4% trong thập niên đầu thế kỷ 21. Đối với tầng lớp lao động trẻ mới vào nghề (từ 15 đến 24 tuổi) thì tỉ lệ thất nghiệp còn cao hơn. Tuy nhiên, với tỉ lệ như vậy khi đem so sánh với các nền công nghiệp phát triển khác thì tỉ lệ thất nghiệp của Nhật Bản vẫn còn thấp. Điều lưu ý là, xu hướng trong tương lai của thị trường lao động Nhật Bản là việc khan hiếm lao động, chứ không phải là sự dư thừa lao động. Theo một số nhà kinh tế học, khi nguồn lao động Nhật Bản tăng theo tỉ lệ là 0,92% trong thời gian 1980-1990 thì tỉ lệ tăng trưởng sẽ vẫn giảm xuống 0,36% trong giai đoạn 1990-2000. Từ năm 2000 đến 2010, tăng trưởng nguồn nhân lực có thể chậm lại ở tỉ lệ 0,25%/năm. Việc già hoá của dân số Nhật Bản trong vòng hơn hai thập kỉ tiếp theo không chỉ làm tăng đáng kể các chi phí xã hội của Chính phủ mà còn đẩy chi phí lương tăng lên đối với các tập đoàn tư nhân. Trong bối cảnh này các công ty lớn đã điều chỉnh bằng cách giảm mức độ quan trọng của tính thâm niên làm việc trong việc tính toán tiền lương. Giảm sự khuyến khích công nhân làm việc suốt đời tại một công ty.Điều này không chỉ làm thay đổi cơ cấu tiền lương mà còn làm tăng tính linh hoạt của thị trường lao động và khuyến khích người lao động tìm kiếm các cơ hội công việc tốt hơn trong các lĩnh vực mở rộng hơn.
Trong giai đoạn ngắn hạn và trung hạn, vấn đề dư thừa lao động vẫn nảy sinh, nhất là đối với nhóm người lao động trí óc. Tuy nhiên, điều này không làm tổn hại tới nhóm công nhân lao động phổ thông. Nhằm giải quyết vấn đề của nhóm người lao động trí óc, các công ty có xu hướng chuyển các nhà quản lý cấp trung sang các công ty con và các công ty phụ thuộc. Sự tăng trưởng kinh tế thấp có thể làm cho tình hình xã hội trở nên phức tạp hơn. Việc bãi bỏ điều tiết trực tiếp có thể tạo ra các cơ hội triển khai các loại hình kinh doanh mới trong các ngành như dịch vụ, công nghệ thông tin và nhờ đó giúp giải quyết được lực lượng lao động trí óc này. Đồng thời, việc bãi bỏ điều tiết trực tiếp cũng có thể làm tăng việc cắt giảm sản xuất và sức ép dư thừa lao động sẽ gia tăng, đặc biệt là ở các cấp quản lý và thư ký văn phòng.
Người ta thấy rõ tác động của việc suy giảm kinh tế đối với việc tuyển dụng các sinh viên mới ra trường tham gia vào thị trường lao động lần đầu tiên. Vài năm trước, những sinh viên mới ra trường trẻ tuổi này có rất nhiều cơ hội việc làm. Nhưng hiện nay, khi các công ty cạnh tranh nhau nhằm tối thiểu hóa chi phí nhân công “suốt đời” thì họ trở nên do dự khi tuyển thêm người lao động. Việc giảm tuyển dụng lao động và thậm chí đóng băng trong nhiều công ty cao cấp đã làm sâu sắc thêm tính cạnh tranh việc làm đối với lao động trẻ tuổi và buộc nhiều ứng cử viên có trình độ cao phải theo đuổi những nghề nghiệp kém phù hợp. Những người lao động trẻ khi có được một công việc tốt lại gặp phải nguy cơ bị đóng băng về mức lương.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Pháp) 1: [Sao chép]
Sao chép!
2.4. la réforme de la structure industrielle et le marché du travailAfin d'adapter l'investissement que vers un renforcement de l'efficacité, la plupart des entreprises japonaises concentrent en profondeur, c'est-à-dire à trouver des moyens de gestion de l'innovation et accroître la productivité des travailleurs. En fait, l'entrepreneur japonais promouvoir la réforme de la structure selon les orientations suivantes :L'un est un changement dans le Keiretsu et la relation de contrat supplémentaireBesoin de souligner que, la hausse du yen et internationalisé processus fabrication fond était et commence à modifier le rapport entre les sous-traitants et Keiretsu. En raison des coûts élevés et de faibles bénéfices et nombreuses grandes compagnies aériennes réduisent le nombre de fournisseurs et même pas à découper les ordres aux sous-traitants qui sont vos favoris. Pendant ce temps, plusieurs grands fabricants tels que les constructeurs automobiles sont moins hésitants que dans la recherche d'une source extérieure à son réseau traditionnel afin de réduire les coûts. En même temps pour pouvoir survivre, les sous-traitants a commencé à chercher des occasions d'affaires dans une gamme plus large avec l'autre grande compagnie aérienne, même des sociétés comme le principal rival de Keiretsu. La pression pour réduire les coûts a augmenté le volume de transaction de trafic des Keiretsu.Ces entreprises profitent de l'augmentation du prix du yen et les coûts de main-d'œuvre sont peu coûteux à acheter plus de produits de fournisseurs basés à l'étranger. Une série d'études par les économistes menées récemment ont commencé à comprendre pourquoi ces activités ont été les avantages distincts comme tel. Chose évidente est, les entreprises trouvent l'approvisionnement à l'étranger va revenir avec les sous-traitants. Avec les sous-traitants, ils développent des relations durables par le biais de joint-ventures ou autres mécanismes. Dans le même temps, ils ont également reçu l'incitation à investir à l'étranger par le réseau de fournisseurs traditionnels. Concernant cette question, l'économiste japonais célèbre Dr Yoshio Suzuki a commenté que « profits dans l'économie de marché de maximisation a eu lieu plus longtemps en Asie de l'est contre l'Occident. De même, en Asie du sud-est le saine concurrence dans un marché n'est pas nécessaire à l'équilibre les débouchés dans les métiers ont été fréquemment. Une fois que la transaction est également apparue l'occasion plus uniformément, en particulier dans les relations durables avec les consommateurs Marine générale ".Deux est, en ajustant le marché du travailBất chấp việc các phương tiện thông tin đại chúng đề cập quá nhiều tới hành động giảm sản xuất của các công ty và tăng chậm của nạn thất nghiệp, dường như Nhật Bản không gặp phải tình trạng náo động thị trường lao động như những năm 1950. Quá trình điều tiết diễn ra vào thời điểm khi mà thị trường lao động Nhật Bản đã không còn kiểm soát được nữa. Không giống như các nước Tây Âu, Nhật Bản phải chấp nhận cắt giảm sản xuất trong điều kiện ảnh hưởng đến chính trị và xã hội thấp nhất đến mức có thể. Tỉ lệ thất nghiệp đã tăng từ 2,1% năm 1990 lên đến 3,2% vào tháng 4 năm 1995. Các dự đoán bi quan hơn cho thấy, tỉ lệ thất nghiệp có thể vượt quá 4% trong thập niên đầu thế kỷ 21. Đối với tầng lớp lao động trẻ mới vào nghề (từ 15 đến 24 tuổi) thì tỉ lệ thất nghiệp còn cao hơn. Tuy nhiên, với tỉ lệ như vậy khi đem so sánh với các nền công nghiệp phát triển khác thì tỉ lệ thất nghiệp của Nhật Bản vẫn còn thấp. Điều lưu ý là, xu hướng trong tương lai của thị trường lao động Nhật Bản là việc khan hiếm lao động, chứ không phải là sự dư thừa lao động. Theo một số nhà kinh tế học, khi nguồn lao động Nhật Bản tăng theo tỉ lệ là 0,92% trong thời gian 1980-1990 thì tỉ lệ tăng trưởng sẽ vẫn giảm xuống 0,36% trong giai đoạn 1990-2000. Từ năm 2000 đến 2010, tăng trưởng nguồn nhân lực có thể chậm lại ở tỉ lệ 0,25%/năm. Việc già hoá của dân số Nhật Bản trong vòng hơn hai thập kỉ tiếp theo không chỉ làm tăng đáng kể các chi phí xã hội của Chính phủ mà còn đẩy chi phí lương tăng lên đối với các tập đoàn tư nhân. Trong bối cảnh này các công ty lớn đã điều chỉnh bằng cách giảm mức độ quan trọng của tính thâm niên làm việc trong việc tính toán tiền lương. Giảm sự khuyến khích công nhân làm việc suốt đời tại một công ty.Điều này không chỉ làm thay đổi cơ cấu tiền lương mà còn làm tăng tính linh hoạt của thị trường lao động và khuyến khích người lao động tìm kiếm các cơ hội công việc tốt hơn trong các lĩnh vực mở rộng hơn.À court et à moyen terme, le problème de surplus de travail encore a surgi, notamment avec les groupes de travailleurs à l'esprit. Toutefois, cela ne fait pas nuire au groupe des travailleurs ordinaires. Afin de résoudre le problème du groupe des travailleurs mentale, les entreprises ont tendance à transférer la gestion de niveau intermédiaire pour les filiales et les sociétés dépendantes. Faiblesse de la croissance économique pourrait faire le social situation devient plus compliquée. L'abolition de la réglementation directe peut créer des opportunités pour développer le type d'entreprise dans les nouveaux secteurs comme les technologies de l'information, services et aider ainsi à résoudre la main-d'oeuvre cet esprit. Dans le même temps, l'abolition de la réglementation directe peut également accroître la baisse du travail excédentaire de production et augmentera la pression, notamment au niveau de la gestion et de commis de bureau.Người ta thấy rõ tác động của việc suy giảm kinh tế đối với việc tuyển dụng các sinh viên mới ra trường tham gia vào thị trường lao động lần đầu tiên. Vài năm trước, những sinh viên mới ra trường trẻ tuổi này có rất nhiều cơ hội việc làm. Nhưng hiện nay, khi các công ty cạnh tranh nhau nhằm tối thiểu hóa chi phí nhân công “suốt đời” thì họ trở nên do dự khi tuyển thêm người lao động. Việc giảm tuyển dụng lao động và thậm chí đóng băng trong nhiều công ty cao cấp đã làm sâu sắc thêm tính cạnh tranh việc làm đối với lao động trẻ tuổi và buộc nhiều ứng cử viên có trình độ cao phải theo đuổi những nghề nghiệp kém phù hợp. Những người lao động trẻ khi có được một công việc tốt lại gặp phải nguy cơ bị đóng băng về mức lương.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Pháp) 2:[Sao chép]
Sao chép!
2.4. Cải tổ cơ cấu công nghiệp và thị trường lao động

Nhằm điều chỉnh việc đầu tư quá theo hướng nâng cao hiệu quả, hầu hết các công ty Nhật Bản tập trung khai thác theo chiều sâu, tức là tìm mọi cách để đổi mới quản lý và nâng cao năng suất lao động. Trên thực tế, các doanh nghiệp Nhật Bản xúc tiến cải tổ cơ cấu theo các hướng sau đây:
Một là, thay đổi trong Keiretsu và các mối quan hệ hợp đồng phụ

Cần phải nhấn mạnh rằng, sự tăng giá của đồng Yên và quá trình quốc tế hóa nền sản xuất đã và đang bắt đầu làm thay đổi các mối quan hệ giữa nhà thầu phụ và Keiretsu. Do chi phí cao và lợi nhuận thấp nên nhiều hãng lớn phải giảm số lượng các nhà cung cấp và thậm chí phải cắt bỏ các đơn đặt hàng với các nhà thầu phụ vốn được ưa chuộng. Trong khi đó, một số nhà sản xuất lớn như nhà sản xuất ôtô ít do dự hơn trong việc tìm kiếm nguồn cung cấp bên ngoài mạng lưới truyền thống của mình nhằm giảm chi phí. Đồng thời để có thể tồn tại được, các nhà thầu phụ bắt đầu tìm kiếm các cơ hội kinh doanh trong phạm vi rộng hơn với các hãng lớn khác, thậm chí cả các công ty là đối thủ của chính Keiretsu. Áp lực cắt giảm chi phí đã làm tăng khối lượng giao dịch thương mại chéo của Keiretsu.
Các công ty tận dụng việc tăng giá của đồng Yên và chi phí nhân công rẻ để mua hàng nhiều hơn từ các nhà cung cấp có cơ sở ở nước ngoài. Một loạt các công trình nghiên cứu do các nhà kinh tế thực hiện gần đây đã bắt đầu lí giải tại sao các hoạt động này lại có được các lợi ích rõ rệt như vậy. Điều dễ nhận thấy là, các công ty tìm nguồn cung từ nước ngoài sẽ quay lại với các nhà thầu phụ. Với các nhà thầu phụ, họ lại phát triển các mối quan hệ lâu dài thông qua hình thức liên doanh hoặc thông qua các cơ chế khác. Đồng thời, họ cũng nhận được sự khuyến khích đầu tư ra nước ngoài của mạng lưới nhà cung cấp truyền thống. Liên quan tới vấn đề này, nhà kinh tế học Nhật Bản nổi tiếng Dr. Yoshio Suzuki nhận xét rằng “tối đa hóa lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường diễn ra lâu hơn trong khu vực Đông Á so với phương Tây. Tương tự, ở Đông Á việc cạnh tranh lành mạnh trong một thị trường không cần thiết phải cân bằng cơ hội trong các giao dịch điểm diễn ra thường xuyên. Thỉnh thoảng trong các giao dịch cũng xuất hiện cơ hội ngang bằng, nhất là trong mối quan hệ lâu dài với những người tiêu dùng thuỷ chung”.
Hai là, điều chỉnh thị trường lao động

Bất chấp việc các phương tiện thông tin đại chúng đề cập quá nhiều tới hành động giảm sản xuất của các công ty và tăng chậm của nạn thất nghiệp, dường như Nhật Bản không gặp phải tình trạng náo động thị trường lao động như những năm 1950. Quá trình điều tiết diễn ra vào thời điểm khi mà thị trường lao động Nhật Bản đã không còn kiểm soát được nữa. Không giống như các nước Tây Âu, Nhật Bản phải chấp nhận cắt giảm sản xuất trong điều kiện ảnh hưởng đến chính trị và xã hội thấp nhất đến mức có thể. Tỉ lệ thất nghiệp đã tăng từ 2,1% năm 1990 lên đến 3,2% vào tháng 4 năm 1995. Các dự đoán bi quan hơn cho thấy, tỉ lệ thất nghiệp có thể vượt quá 4% trong thập niên đầu thế kỷ 21. Đối với tầng lớp lao động trẻ mới vào nghề (từ 15 đến 24 tuổi) thì tỉ lệ thất nghiệp còn cao hơn. Tuy nhiên, với tỉ lệ như vậy khi đem so sánh với các nền công nghiệp phát triển khác thì tỉ lệ thất nghiệp của Nhật Bản vẫn còn thấp. Điều lưu ý là, xu hướng trong tương lai của thị trường lao động Nhật Bản là việc khan hiếm lao động, chứ không phải là sự dư thừa lao động. Theo một số nhà kinh tế học, khi nguồn lao động Nhật Bản tăng theo tỉ lệ là 0,92% trong thời gian 1980-1990 thì tỉ lệ tăng trưởng sẽ vẫn giảm xuống 0,36% trong giai đoạn 1990-2000. Từ năm 2000 đến 2010, tăng trưởng nguồn nhân lực có thể chậm lại ở tỉ lệ 0,25%/năm. Việc già hoá của dân số Nhật Bản trong vòng hơn hai thập kỉ tiếp theo không chỉ làm tăng đáng kể các chi phí xã hội của Chính phủ mà còn đẩy chi phí lương tăng lên đối với các tập đoàn tư nhân. Trong bối cảnh này các công ty lớn đã điều chỉnh bằng cách giảm mức độ quan trọng của tính thâm niên làm việc trong việc tính toán tiền lương. Giảm sự khuyến khích công nhân làm việc suốt đời tại một công ty.Điều này không chỉ làm thay đổi cơ cấu tiền lương mà còn làm tăng tính linh hoạt của thị trường lao động và khuyến khích người lao động tìm kiếm các cơ hội công việc tốt hơn trong các lĩnh vực mở rộng hơn.
Trong giai đoạn ngắn hạn và trung hạn, vấn đề dư thừa lao động vẫn nảy sinh, nhất là đối với nhóm người lao động trí óc. Tuy nhiên, điều này không làm tổn hại tới nhóm công nhân lao động phổ thông. Nhằm giải quyết vấn đề của nhóm người lao động trí óc, các công ty có xu hướng chuyển các nhà quản lý cấp trung sang các công ty con và các công ty phụ thuộc. Sự tăng trưởng kinh tế thấp có thể làm cho tình hình xã hội trở nên phức tạp hơn. Việc bãi bỏ điều tiết trực tiếp có thể tạo ra các cơ hội triển khai các loại hình kinh doanh mới trong các ngành như dịch vụ, công nghệ thông tin và nhờ đó giúp giải quyết được lực lượng lao động trí óc này. Đồng thời, việc bãi bỏ điều tiết trực tiếp cũng có thể làm tăng việc cắt giảm sản xuất và sức ép dư thừa lao động sẽ gia tăng, đặc biệt là ở các cấp quản lý và thư ký văn phòng.
Người ta thấy rõ tác động của việc suy giảm kinh tế đối với việc tuyển dụng các sinh viên mới ra trường tham gia vào thị trường lao động lần đầu tiên. Vài năm trước, những sinh viên mới ra trường trẻ tuổi này có rất nhiều cơ hội việc làm. Nhưng hiện nay, khi các công ty cạnh tranh nhau nhằm tối thiểu hóa chi phí nhân công “suốt đời” thì họ trở nên do dự khi tuyển thêm người lao động. Việc giảm tuyển dụng lao động và thậm chí đóng băng trong nhiều công ty cao cấp đã làm sâu sắc thêm tính cạnh tranh việc làm đối với lao động trẻ tuổi và buộc nhiều ứng cử viên có trình độ cao phải theo đuổi những nghề nghiệp kém phù hợp. Những người lao động trẻ khi có được một công việc tốt lại gặp phải nguy cơ bị đóng băng về mức lương.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: