3.10 chart: results position the testicles after surgeryComment: after surgery, had 57 children with 67 TH to visit again, 88.1% of results in good position, had 4.5% of TH in a bad position. 3.39 table: average THKXB volume after surgeryOf post-operative surgery Before TH 12 monthsRight of 0.65 ± 0.29 0.32 ± 0.84 cm3 cm3Left 0.63 ± 0.33 ± 0.30 0.75 cm3 cm3The p-value < 0.05Comment: after surgery, volume 12, TH are louder than the volume TH before the surgery to have statistical significance with < p 0.05.Chapter 4DISCUSSION4.1. EARLY DIAGNOSIS and the INCIDENCE of POSTPARTUM THKXB 4.1.1. The early diagnosis of THKXBEarly diagnosis that we proceed is discovered THKXB diagnosis right from birth. The examination and diagnosed shortly after birth to be the authors see as initial screening method to determine the rate of THKXB. Using the method of diagnostic imaging for the diagnosis of THKXB in the newborn period is not necessary. In this study, we conducted the diagnosis determined soon THKXB after birth by the method of clinical examination is a perfect fit with the author in the country and the world.4.1.2. The incidence of THKXBThe incidence of postpartum THKXB is 4.8% equivalent to 3.7% of their research is Berkowit, 4.8% of their Thong MK, 5.7% is Preiksa. THKXB deformities proves quite popular following the birth and young men of our country as well as the countries of the world. THKXB in young enough, is 2.4%, 25.1% is immature and young. Research of Thong m. K (1998) found the rate of THKXB in young children, is young enough, months is 17.3% 3.3%. Preiksa (2005) found the rate of THKXB in premature infant, low birth weight is higher than for older children apparent enough, with p = 0.03. Young enough, getting THKXB 1 side is 78.1% primary, in contrast, mostly young children stuck in 2 side THKXB (71.5%) Research results of the Thong M. K THKXB 1 rate in young enough, is 72.7%, 2 side THKXB rates in older non, 76.9% occupied. Preiksa 2 side THKXB rate in premature infants, higher weight compared with enough young OR = 3.8. We meet THKXB location in young children early in the inguinal Canal and inguinal (88.7%). shallow holes in older, enough, position in the inguinal Canal and touch not found is 94.5%.Dị tật phối hợp sau sinh, chúng tôi gặp 18,4% số trẻ bị THKXB mắc các dị tật liên quan tới bộ phận sinh dục ngoài như ứ nước màng tinh hoàn, thoát vị bẹn, lỗ đái thấp. Nghiên cứu của Thong M.K thấy trẻ bị THKXB mắc kèm các dị tật liên quan tới bộ phận sinh dục ngoài chiếm tỷ lệ 16,6%. Nghiên cứu Preiksa tỷ lệ dị tật bộ phận sinh dục ngoài trên trẻ THKXB chiếm 21,7%, Machetti (2012) tỷ lệ này là 18%. Như vậy THKXB hay có dị tật phối hợp kèm theo đặc biệt những dị tật liên quan bộ phận sinh dục ngoài. 4.2. DIỄN BIẾN THKXB TRONG NĂM ĐẦU4.2.1. Diễn biến tự di chuyển của tinh hoàn trong năm đầuThe number of child THKXB quickly reduced from 368 children 161 children at 3 months, 6 months longer 128 children, from 6-12 months down to add 4/128. By the testicles, from 530 THKXB THKXB down 200 at birth at 3 months, 6 months and at 152 THKXB 156 THKXB at 12 months. So THKXB rising fast in the first three months, from 3-6 months of continued down, longer after 6-12 months of age THKXB the very least move down the scrotum. Our results match the research of Pyola S (1995). It is largely self-THKXB scroll down to the scrotum in the first 3 months, after 3-6 months of continued down but less and after 6 months rate down very low scrotum just under 5%. The results of our study showed that the rate of 1.3% at 12 months is THKXB. This result is equivalent to that of Berkowit (1.1%), of Thong m. K (1.1%), of Peiksa (1.4%). Trẻ non tháng bị THKXB sau sinh có TH tự di chuyển xuống bìu lúc 12 tháng là 88,3%. Còn ở trẻ đủ tháng, tỷ lệ THKXB di chuyển được tới bìu lúc 12 tháng là 39,8%. Kết quả này tương đương nghiên cứu của Berkowit, TH tự xuống bìu ở trẻ non tháng trong năm đầu là 91,2%, trẻ đủ tháng 57,1%. Nghiên cứu của Thong M.K (1998) thấy tỷ lệ TH tự xuống bìu ở trẻ non tháng trong năm đầu là 91%, trẻ đủ tháng 69,6%. Tỷ lệ TH tự xuống bìu tại lỗ bẹn nông là 96,3%; ở ống bẹn là 81,3%; lỗ bẹn sâu và sờ không thấy chỉ có 35,2%. Như vậy, vị trí tinh hoàn càng gần bìu thì càng dễ xuống bìu. Trẻ non tháng, vị trí THKXB chủ yếu ở lỗ bẹn nông và ống bẹn chiếm tỷ lệ 88,7%. Trong khi đó, trẻ đủ tháng vị trí THKXB chủ yếu ở ống bẹn và sờ không thấy chiếm tỷ lệ 94,5%. Thể tích THKXB lúc 12 tháng nhỏ hơn so với thể tích trung bình của TH lành có ý nghĩa thống kê với p< 0,05. Nghiên cứu của Thái Minh Sâm thấy kích thước của THKXB nhỏ hơn so với TH lành có ý nghĩa thống kê (p< 0,001), chênh lệch kích thước càng gia tăng nếu bệnh nhân điều trị càng muộn. Trần Long Quân siêu âm thấy tuổi càng lớn thì thể tích tinh hoàn càng dần nhỏ lại, nhóm 1-2 tuổi TH ít bị teo nhất. Tác giả Lee P.A nghiên cứu 166 bệnh nhân THKXB thấy 60% số trẻ có thể tích trung bình của THKXB nhỏ hơn TH lành. Nhóm tuổi 12-18 tháng tuổi tinh hoàn ít bị teo hơn. 4.3. ĐIỀU TRỊ THKXB4.3.1. Điều trị bằng nội tiết tốChúng tôi chẩn đoán THKXB ngay sau sinh, theo dõi di chuyển của TH trong năm đầu nên có kế hoạch chủ động điều trị bằng nội tiết tố lúc 12-15 tháng tuổi. So với các nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước thì tuổi điều trị ở bệnh nhân THKXB của chúng tôi sớm hơn rất nhiều. Điều này chứng tỏ chẩn đoán, theo dõi và tư vấn điều trị sớm là có lợi cho bệnh nhân. THKXB ở vị trí ống bẹn 39,3%, lỗ bẹn nông 36,1%, lỗ bẹn sâu 11,5% và sờ không thấy 13,1%. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Ân cho thấy TH ở vị trí lỗ bẹn nông chiếm tỷ lệ thấp nhất 2,7%, vị trí ở ổ bụng chiếm tỷ lệ khá cao 31,3%. Rất có thể những trẻ bị THKXB ở vị trí lỗ bẹn nông không được chẩn đoán sớm sau sinh nên gia đình không đưa trẻ tới cơ sở y tế để điều trị. Chúng tôi chẩn đoán và theo dõi ngay sau sinh, tư vấn lợi ích của việc điều trị sớm nên những trẻ có tinh hoàn ở vị trí lỗ bẹn nông đã được gia đình đưa tới điều trị đầy đủ.Qua 2 đợt điều trị bằng HCG tỷ lệ TH xuống bìu hoàn toàn 30,3%, xuống một phần thuận lợi cho mổ 28,7%, không xuống 41%. THKXB tại vị trí lỗ bẹn nông đáp ứng rất tốt với điều trị bằng nội tiết tố, tỷ lệ TH xuống bìu hoàn toàn 72,7%. Theo tác giả Nguyễn Thị Ân (2000), vị trí TH ở lỗ bẹn nông điều trị bằng nội tiết tố thành công 75%, ở ống bẹn 8,4% và ở lỗ bẹn sâu là 6,9%. Tác giả Trần Long Quân thấy vị trí THKXB ở lỗ bẹn nông điều trị bằng nội tiết tố thành công 71,4%, ở ống bẹn là 9,8%. Phân loại theo thể lâm sàng, THKXB thể sờ thấy đáp ứng điều trị bằng nội tiết tố 61,3%, thể sờ không thấy đáp ứng 43,7% nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với (p = 0,1). Nguyễn Thị Ân (2000), Trần Long Quân (2013) cũng thấy rằng THKXB thể sờ thấy và sờ không thấy đáp ứng điều trị bằng nội tiết tố như nhau. Chúng tôi thấy thể tích trung bình THKXB sau điều trị bằng nội tiết tố 6 tháng có tăng so với trước điều trị nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê, với p>0,05. Tác giả Nguyễn Thị Ngọc Minh khi so sánh thể tích THKXB bằng siêu âm trước và sau điều trị bằng nội tiết tố 6 tháng cũng thấy tương tự: 0,48cm3 so với 0,59 cm3, (p>0,05). Như vậy, rõ ràng điều trị bằng nội tiết tố không làm thể tích TH giảm mà có tăng lên.
4.3.2. Điều trị bằng phẫu thuật
Vị trí THKXB trong nghiên cứu của chúng tôi hay gặp nhất là trong ống bẹn ( 42,4%), tỷ lệ không tìm thấy tinh hoàn khoảng 2%, ở lỗ bẹn nông 32,3% cao hơn các tác giả khác cũng có thể do chúng tôi chẩn đoán, theo dõi ngay sau sinh và có điều trị bằng nội tiết tố, tư vấn lợi ích của phẫu thuật hạ tinh hoàn xuống bìu sớm nên những gia đình yên tâm đưa trẻ THKXB tới phẫu thuật trước 2 tuổi, như vậy là có lợi về mặt thời gian, tránh thoái hóa TH.
Tất cả THKXB ở vị trí lỗ bẹn nông, ống bẹn phẫu thuật hạ xuống bìu đều thành công ngay thì đầu. Tỷ lệ thành công của tinh hoàn ở lỗ bẹn sâu là 12/15 (80%). Theo nghiên cứu Hoàng Tiến Việt, Lê Văn Trưởng thì những trẻ bị THKXB được phẫu trước 2 tuổi TH ở vị trí tốt 100%. Tỷ lệ phẫu thuật 2 thì của chúng tôi thấp (6%) vì bệnh nhân của chúng tôi nhỏ tuổi khoảng cách từ TH tới bìu ngắn nên hạ có phần dễ hơn. Tác giả Lê Văn Trưởng thấy tỷ lệ THKXB phải phẫu thuật 2 thì tăng theo tuổi như sau: 1-2 tuổi không có bệnh nhân nào, 2-4 tuổi có 2,4%, 4-6 tuổi 11,4%, lúc 6-10 tuổi 26,2% và phẫu thuật khi 10-16 tuổi thì tỷ lệ phẫu thuật 2 thì là 21,2%. Như vậy phẫu thuật hạ tinh hoàn ở trẻ dưới 2 tuổi có lợi về khoảng cách từ vị trí tinh hoàn tới bìu. Biến chứng chúng tôi gặp tuột mũi chỉ khâu có 1/82 bệnh nhân (1,2%), xử lý khâu lại vết mổ sau 1 ngày ra viện, không ảnh hưởng tới kết quả mổ. Paul J.K (2010) thấy tỷ lệ biến chứng phẫu thuật hạ THKXB là 0,6%, không có sự khác nhau về biến chứng phẫu thuật trước 2 tuổi so với sau 2 tuổi.
Vị trí tinh hoàn sau phẫu thuật chúng tôi thấy TH ở vị trí tốt chiếm 88,1%, vị trí trung bình là 7,4%, vị trí xấu 4,5%, thể tích tinh hoàn sau phẫu thuật 12 tháng to hơn so với trước phẫu thuật với p<0,05. So sánh với kết quả của Lê Tất Hải (2006) tinh hoàn ở vị trí tốt 75,3%, trung bình 13,6%, xấu 3,3%, không thấy 7,8%. Hoàng Tiến Việt (2007) tốt 69,8%, trung bình 23,
đang được dịch, vui lòng đợi..
