Các lĩnh vực khác cũng hoạt động tốt hơn. Tiêu thụ điện tăng theo sức mua của hộ gia đình và hoạt động sản xuất, song không chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi những bước phát triển trong ngành xây dựng. So với một năm về trước, con số này đã tăng thêm 12%, tính đến tháng 4 năm 2009. Tốc độ này thấp hơn so với trước đây, song không nhiều. Tổng mức bán lẻ cũng tăng trưởng với xu hướng tương tự, ở mức 11,6%, một biến số khác không có liên hệ trực tiếp với những thay đổi trong lĩnh vực xây dựng. Chuỗi số liệu về tổng mức bán lẻ có vẻ ít chắc chắn, xác thực hơn vì còn phải tính đến yếu tố giảm phát giá cả tiêu dung, và trong năm vừa qua có biến động kinh tế vĩ mô đáng kể, làm cho tốc độ tăng trưởng dự báo trở nên rất nhạy cảm với chỉ số giá và hệ số giảm phát. Tuy nhiên, mặc dù giảm phát, tăng trưởng tổng mức bán lẻ thực vẫn cao đáng kể (biểu đồ 4). Điều này được khẳng định thông qua các nguồn thông tin độc lập. ví dụ, tháng 5/2009 sản xuất điều hòa nhiệt độ tăng 56% so với tháng 5/2008. Sản xuất tủ lạnh tăng 23% và máy giặt tăng 32%.Mối quan ngại chính ở đây rõ ràng là tình hình xuất khẩu. các nhà bình luận thường chỉ ra rằng xuất khẩu chiếm tới 70% GDP của Việt Nam, đồng nghĩa với việc sụt giảm xuất khẩu có thể gây ra hậu quả tồi tệ. Suy diễn cơ học như vậy là sai lầm, vì xuất khẩu được đo bằng giá trị của thành phẩm, trong khi GDP được đo bằng giá trị gia tăng trong nước. Ví dụ, kim ngạch xuất khẩu gạo bằng khoảng 1/3 kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc, song phần giá trị gia tăng trong nước của lúa gạo cao hơn nhiều so với hàng may mặc, khi tính đến yếu tố đầu vào nhập khẩu. trong năm tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu gạo tăng 20,2% và hàng dệt may giảm 1,8% điều này trên nguyên tắc sẽ làm cho tổng kim ngạch xuất khẩu hầu như không thay đổi. Tuy nhiên, giá trị gia tăng trong nước của hàng xuất khẩu có lẽ tăng do hiệu ứng thành phần đã nói trên. Rất tiếc là không có các chuỗi số liệu sẵn có để đo lường những thay đổi về giá trị gia tăng trong nước của hàng xuất khẩu.
đang được dịch, vui lòng đợi..