7. Chất lượng dịch vụ Các ngân hàng đã triển khai các nghiệp vụ ngoại  dịch - 7. Chất lượng dịch vụ Các ngân hàng đã triển khai các nghiệp vụ ngoại  Anh làm thế nào để nói

7. Chất lượng dịch vụ Các ngân hàng


7. Chất lượng dịch vụ
Các ngân hàng đã triển khai các nghiệp vụ ngoại hối phái sinh để phục vụ nhu cầu của khách hàng tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế về chất lượng dịch vụ như cách tính phí, tỷ lệ ký quỹ, thủ tục giao dịch, tư vấn, … chưa thực sự làm hài lòng khách hàng. Cho đến nay cũng chưa có khảo sát chính thức xem bao nhiêu khách hàng hài lòng với các công cụ này. Nguyên nhân của việc này là do giá của hợp đồng quyền chọn chưa thực sự hợp lý, doanh nghiệp cân nhắc giữa chi phí bỏ ra và lợi ích được bảo vệ không cân xứng nhau nên không mặn mà sử dụng quyền chọn. Bên cạnh đó là các thủ tục thực hiện giao dịch, các tiêu chí phân loại nghiệp vụ của các ngân hàng là khác nhau, nhiều ngân hàng chưa hề công bố điều kiện sử dụng nghiệp vụ phái sinh trên website, thiếu hướng dẫn chi tiết từ các nhân viên ngân hàng gây ra khó khăn cho doanh nghiệp muốn sử dụng. Bản thân ngân hàng cũng không muốn mở rộng nghiệp vụ ngoại hối phái sinh. Khi có hợp đồng ký kết từ khách hàng, ngân hàng sẽ phải đi tìm hợp đồng đối ứng để cân bằng trạng thái. Có thể thấy các hạn chế này đã làm cho các doanh nghiệp không thực sự hài lòng khi sử dụng các công cụ ngoại hối phái sinh.
8. Những rào cản của thị trường
Bên cạnh các đặc tính thể hiện sự phát triển ở mức độ thấp, thị trường ngoại hối phái sinh còn bộc lộ những hạn chế, tạo rào cản cho các thành viên tiếp cận thị trường như chủ thể tham gia thị trường chưa đa dạng, sản phẩm chỉ dừng ở mức độ giản đơn. Ngoài ra các NHTM cũng quy định giá trị hợp đồng tối thiểu không thống nhất giữa các ngân hàng (Bảng 7). Theo tiêu chí này, có vẻ như khách hàng dễ ký hợp đồng quyền chọn với Techcombank, song còn có những quy định khác, và còn phụ thuộc vào việc Techcombank có tìm được hợp đồng đối ứng với đối tác nước ngoài khác không.
Một rào cản khác cho NHTM với tư cách là người bán quyền chọn, NHTM luôn có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng, NHTM phải xác định phí quyền chọn làm sao đủ để bù đắp sự lên giá của ngoại tệ. Vì vậy, NHTM cần có số đông khách hàng để có thể làm trung gian cân đối hay điều hòa rủi ro giữa người ký kết hợp đồng quyền chọn với ngân hàng. Ngân hàng lại phải làm một việc coi như bảo hiểm cho chính mình bằng cách ký hợp đồng mua quyền chọn mua tiếp với các ngân hàng nước ngoài. Như vậy, phí quyền chọn thu được từ khách hàng trong nước sẽ được trả cho người bán quyền chọn nước ngoài, nên ngân hàng hoàn toàn không có lãi. Thêm vào đó, số lượng ngân hàng tham gia thị trường quyền chọn còn ít, nên các ngân hàng không có cơ hội giao dịch với nhau, buộc các ngân hàng tự đi tìm đối tác nước ngoài. Ngoài rủi ro tỷ giá ngân hàng tự gánh chịu, ngân hàng còn có nguy cơ khác là rủi ro đối tác nếu đối tác ký hợp đồng nước ngoài không đáng tin cậy.
9. Mức độ hiệu quả và hỗ trợ sự ổn định của thị trường ngoại hối
Phát triển các nghiệp vụ phái sinh là bước đi quan trọng và có tính quyết định đến với sự phát triển thị trường ngoại hối trong bối cảnh thị trường ngoại hối phái sinh đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới và Việt Nam đang hội nhập kinh tế thế giới. Các doanh nghiệp có thể sử dụng các công cụ ngoại hối phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá và cả đầu tư sinh lời. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay doanh số nghiệp vụ ngoại hối phái sinh vẫn luôn chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong giao dịch ngoại hối, chưa đến 10% (năm 2011 là 9,5% ). Thậm chí doanh nghiệp nhiều khi mong muốn phòng ngừa rủi ro tỷ giá, nhưng không thể tiếp cận được ngân hàng. Chính vì vậy theo đánh giá của các chuyên gia, thị trường ngoại hối phái sinh của Việt Nam vẫn chưa phát huy được sự hiệu quả và chưa phát huy được vai trò của mình trong việc bình ổn thị trường ngoại hối, giúp phòng ngừa và bảo hiểm rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp có hoạt động thương mại quốc tế.
10. Khả năng giám sát, quản lý giao dịch phái sinh của cơ quan quản lý tiền tệ:
Thị trường ngoại hối phái sinh Việt nam mới được thành lập, các hoạt động trên thị trường đều ở mức sơ khai và chưa đi vào quy củ, mặc dù NHNN đã có văn bản định hướng hoạt động thị trường theo mục tiêu an toàn, nhưng ngược lại, về phía NHTM luôn có xu thế lách luật kiếm lời. Nên trên thực tế, đã xuất hiện một số vấn đề:
Thứ nhất, các quy định về giao dịch ngoại hối phái sinh đã tạo ra cơ hội kinh doanh chênh lệch giá. Theo các quy định về xác định tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn giai đoạn 1999 - 2000, các NHTM dễ dàng tính được mức tỷ giá bán giao ngay tối đa cho một ngày cụ thể trong tương lai. Tương tự, NHTM căn cứ vào tỷ giá giao ngay tại thời điểm ký hợp đồng và biên độ quy định cho từng kỳ hạn, để tính được tỷ giá kỳ hạn mua vào, bán ra (Quyết định số 65, 66). Vào thời gian tháng 5, 6/2000, tỷ giá mua kỳ hạn một tháng của NHTM lại cao hơn tỷ giá mua giao ngay tại thời điểm hợp đồng kỳ hạn một tháng đến hạn. NHTM mua kỳ hạn USD của khách hàng bị lỗ so với mua giao ngay. Nhưng bù lại, mức lãi suất USD trên thị trường tiền gửi quốc tế tăng cao, NHTM sẵn sàng thực hiện mua USD giao ngay bằng với mức tỷ giá kỳ hạn sau một tháng, sau đó gửi USD ra nước ngoài, đồng thời tìm đối tác bán kỳ hạn 1 tháng USD theo đúng quy định về tỷ giá kỳ hạn 1 tháng của NHNN. Trong hoạt động “carry trade” này, NHTM gặp ba rủi ro: (i) chênh lệch giữa tỷ giá bán kỳ hạn 1 tháng và tỷ giá mua giao ngay theo tỷ giá mua kỳ hạn là rất nhỏ, khiến NHTM bị lỗ ngoại hối. Nhưng rất may, lãi suất USD đủ bù đắp lỗ kinh doanh kỳ hạn. (ii) Khả năng NHTM tìm được khách hàng đồng ý mua kỳ hạn 1 tháng với NHTM là ít, bởi NHTM tự tìm đối tác, tự khớp lệnh mua - bán kỳ hạn. (iii) Khi cung - cầu ngoại tệ căng thẳng, NHTM đã đẩy tỷ giá mua giao ngay sát với tỷ giá bán giao ngay, có lúc chỉ chênh lệch 2 VND/1 USD giao dịch, thậm chí là bằng, khiến cho lỗ ngoại hối từ giao dịch giao ngay của NHTM càng lớn. Có thể nói, giai đoạn này NHTM vừa cung cấp dịch vụ cho khách hàng, vừa là hoạt động đầu cơ nên rủi ro thị trường, rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động của hệ thống NHTM là rất lớn.
Thứ hai, với cách quy định về tỷ giá kỳ hạn, tỷ giá giao ngay đã khiến cho hai chuỗi tỷ giá bị lệch khỏi nhau tương đối lớn với cùng kỳ hạn trong suốt giai đoạn 2002 - 2009 . Nếu thị trường hoạt động thông suốt, thì đây là cơ hội kinh doanh chênh lệch giá cho các ngân hàng. Nhưng lại không thể diễn ra ở Việt nam do các NHTM phản ứng hoàn toàn giống nhau, chứ không có chiều giao dịch ngược lại. Song mặt trái của nó, đã tạo nên kỳ vọng thị trường về việc điều chỉnh tăng tỷ giá.
Thứ ba, giao dịch Swap ở Việt nam không có chức năng phòng ngừa rủi ro tỷ giá, mà chỉ được sử dụng khi các NHTM thiếu vốn khả dụng VND, thừa USD. Giao dịch Swap đòi hỏi NHTM mất chi phí cao hơn nếu vay vốn VND từ NHNN.
Thứ tư, cách quy định về giao dịch quyền chọn tiền tệ giúp NHTM vi phạm biên độ giao động tỷ giá giao ngay.
Khi tỷ giá biến động mạnh trong hai năm 2008 - 2009, ngoài nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn, NHNN cho phép áp dụng giao dịch quyền chọn tiền tệ. Do tỷ giá trên thị trường chợ đen có lúc cao hơn so với tỷ giá trong hệ thống NHTM, trong khi nguồn cung ngoại tệ của hệ thống bị hạn chế, cầu ngoại tệ tăng cao, tỷ lệ kết hối chỉ áp dụng với 7 Tổng công ty nhà nước, nên NHTM kẹt vào thế không có nguồn cung ngoại tệ bán cho doanh nghiệp, trong khi doanh nghiệp lại găm giữ ngoại tệ. Theo quy định, các ngân hàng thương mại chỉ được phép bán USD đúng với giá niêm yết, theo biên độ cụ thể ở từng thời kỳ so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Những thời điểm ngột ngạt, “tỷ giá chợ đen” xuất hiện ngay trong lòng hệ thống, mà nghiệp vụ quyền chọn là một kẽ hở nhộn nhịp. NHTM và khách hàng cùng ký hợp đồng quyền chọn mua, NHTM đóng vai trò là người bán quyền. Vì tỷ giá hợp đồng quyền chọn là thỏa thuận, nên không bị ràng buộc bởi biên độ giao động tỷ giá. NHTM và khách hàng lợi dụng kẽ hở này, ký hợp đồng quyền chọn theo tỷ giá tham chiếu ngoài thị trường ngoại hối tự do, và thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ, tức là doanh nghiệp - người mua quyền chọn có quyền thực hiện hợp đồng bất kỳ lúc nào nếu tỷ giá có lợi cho mình trong thời hạn của hợp đồng. Thực chất, giao dịch quyền chọn này được thực hiện hoàn toàn giống như giao dịch giao ngay, có điều tỷ giá do NHTM và doanh nghiệp thỏa thuận. Vô hình chung, NHTM đã xé rào tỷ giá, không tuân thủ theo quy định của NHNN về biên độ giao động tỷ giá. Để trám lại lỗ hổng đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban luật cấm. Còn nay, số phận của quyền chọn USD/VND đang có cơ hội tái sinh. Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng một văn bản với khả năng mở lại nghiệp vụ này, dĩ nhiên là đi kèm với những điều kiện cần thiết.
11. Mức độ hội nhập với thị trường ngoại hối phái sinh khu vực và toàn cầu
Hình thái tồn tại thị trường ngoại hối phái sinh mới chỉ ở mức đơn giản. Việt nam chưa có Sở giao dịch ngoại hối, các giao dịch đều ở dạng OTC. Giao dịch phái sinh với mục đích tự kinh doanh chiếm tỷ trọng í
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
7. Quality of service The Bank has implemented the foreign exchange derivative business to serve the needs of customers but there are still many limitations on quality of service as fees, escrow rates, transaction procedure, advice, ... not really satisfied customers. So far also don't yet have a formal survey see how many customers happy with this tool. The cause of this is due to the price of the option contract has not actually sensible enterprises weigh between costs and benefits be disproportionate protection to each other should be unwilling to use the option. Next to it is the procedure of execution, the classification criteria of the Bank is different, many banks haven't announced conditions of use on the website of derivatives business, the lack of detailed instructions from the Bank staff caused difficulties for enterprises wanting to use. The Bank itself also did not wish to expand foreign exchange derivative business. When signing the contract from the client, the Bank will have to go find the reciprocal contracts to balance status. Can see the restrictions did for enterprises not really satisfied when using Forex derivative tools.8. The barriers of the market Besides the characteristics expressed in the low level of development, the Forex market derivatives also reveal the limitations, creating barriers to market access members as subjects market participants have not varied, the product only in simple level. In addition to the URBAN COMMERCIAL also stipulated the minimum contract value inconsistency between these banks (table 7). According to this criterion, it seems easy to contract customers the right to choose with Techcombank, song has the following other regulations, and depend on the Techcombank find reciprocal contracts with other foreign counterparts do not. One other hurdle for URBAN COMMERCIAL as the seller of the option, URBAN COMMERCIAL always the obligation to perform the contract, URBAN COMMERCIAL must determine how the option to charge enough to compensate the price of foreign currencies. So, URBAN COMMERCIAL needs of the customers to be able to mediate or regulate balance risks between collaboration option with the Bank. The Bank must do a job considered as insurance for yourself by signing the contract to buy the right to choose to buy with foreign banks. As such, the option premium collected from domestic customers will be charged to the seller the right to choose, should the Bank entirely without interest. In addition, the number of the bank market participants the option of remaining at least, banks should not have the opportunity of dealing with each other, forcing the banks to go find partners abroad. In addition to the risk of bank rates themselves suffer, banks also have the other risk is the risk of partners if foreign contract partner is not reliable. 9. The level of efficiency and support the stability of the foreign exchange market Development of derivatives business is an important step and decisive to the development of foreign exchange market in the context of foreign exchange derivative market is developing strongly in the world and Vietnam are the world economic integration. Enterprises can use foreign exchange derivative instruments for the prevention of risks and investment rates. However, in present Vietnam sales of foreign exchange derivative business always occupied a very small proportion of Forex trading, less than 10% (in 2011 is 9.5%). Many businesses even when the desire to prevent the risk of rates, but could not reach the Bank. Therefore, according to the experts, the foreign exchange market of Vietnam has yet to promote the effective and not fulfilling its role in the foreign exchange market stabilization, helps the prevention and risk insurance rates for businesses that operate in international trade.10. Ability to supervise, manage the Agency's management of derivative currency: Forex derivative market new Vietnam was established, activities on the market were in the stub level and have not gone to tubercle, although SBV had written market orientation according to the target, but on the contrary, to the URBAN COMMERCIAL always splenic trend of law. So, in fact, have appeared a number of problems: Firstly, the regulations regarding foreign exchange trading derivatives has created business opportunities price difference. According to the rules of determining the exchange rate for immediate delivery and term rates the period 1999-2000, the URBAN COMMERCIAL easily calculated maximum delivered sales rates for a specific date in the future. Similarly, URBAN COMMERCIAL based on the exchange rate for immediate delivery at the time of signing the contract and the magnitude of the regulations for each term, to calculate the exchange rate-term buying in, selling out (decision No. 65, 66). At the time, 6/2000, rates of URBAN COMMERCIAL one month term with a higher rate again buy for immediate delivery at the time of the contract of a duration of one month to date. URBAN COMMERCIAL buy term USD of the customer loss versus buy for immediate delivery. But in return, the level of interest in the market of international deposits rising, URBAN COMMERCIAL ready made buy USD immediate delivery by term rates with levels after a month, then send USD abroad, and find partners to sell the term of 1 month USD according to the provisions of term 1, rates of SBV. In the "carry trade" operations, URBAN COMMERCIAL met three risks: (i) the difference between the selling rate-term 1, and rates of purchase for immediate delivery buy rate term is very small, making URBAN COMMERCIAL foreign exchange loss. But thankfully, enough interest offset business losses. (ii) possibility of URBAN COMMERCIAL search customer agreed to buy 1 month term with the URBAN COMMERCIAL is less, by the free URBAN COMMERCIAL search partners, matching character buying-selling. (iii) when the supply-demand of foreign currency tensions, has pushed the national URBAN COMMERCIAL purchase price for immediate delivery with female sale price for immediate delivery have disparity at only 2, USD/1 USD transactions, even by, making foreign exchange losses from spot trading of URBAN COMMERCIAL as possible. Have to say, this medium sized URBAN COMMERCIAL stage providing services to clients, both activities should market risk, credit risk, operational risk of URBAN COMMERCIAL system is very large. Second, the way the regulation of rates, term rates for immediate delivery has led to two rates displaces each other relatively large with the same term throughout the period 2002-2009. If the market works smoothly, then this is the business opportunity of the price difference for the Bank. But she could not take place in the Philippines due to the URBAN COMMERCIAL response completely the same, rather than having the opposite transaction dimension. Song side of it, have created market expectations about the rate increase. Third, the Swap transactions in Vietnam does not have the function to prevent the risk of rates, which can be used only when the URBAN COMMERCIAL lack of capital available excess USD, USD. Swap transactions require URBAN COMMERCIAL takes a higher cost if the USD loan from SME.Fourth, the way the rules of currency option transactions help magnitude breach agitated URBAN COMMERCIAL rates for immediate delivery. Khi tỷ giá biến động mạnh trong hai năm 2008 - 2009, ngoài nghiệp vụ ngoại hối kỳ hạn, NHNN cho phép áp dụng giao dịch quyền chọn tiền tệ. Do tỷ giá trên thị trường chợ đen có lúc cao hơn so với tỷ giá trong hệ thống NHTM, trong khi nguồn cung ngoại tệ của hệ thống bị hạn chế, cầu ngoại tệ tăng cao, tỷ lệ kết hối chỉ áp dụng với 7 Tổng công ty nhà nước, nên NHTM kẹt vào thế không có nguồn cung ngoại tệ bán cho doanh nghiệp, trong khi doanh nghiệp lại găm giữ ngoại tệ. Theo quy định, các ngân hàng thương mại chỉ được phép bán USD đúng với giá niêm yết, theo biên độ cụ thể ở từng thời kỳ so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Những thời điểm ngột ngạt, “tỷ giá chợ đen” xuất hiện ngay trong lòng hệ thống, mà nghiệp vụ quyền chọn là một kẽ hở nhộn nhịp. NHTM và khách hàng cùng ký hợp đồng quyền chọn mua, NHTM đóng vai trò là người bán quyền. Vì tỷ giá hợp đồng quyền chọn là thỏa thuận, nên không bị ràng buộc bởi biên độ giao động tỷ giá. NHTM và khách hàng lợi dụng kẽ hở này, ký hợp đồng quyền chọn theo tỷ giá tham chiếu ngoài thị trường ngoại hối tự do, và thực hiện hợp đồng quyền chọn theo kiểu Mỹ, tức là doanh nghiệp - người mua quyền chọn có quyền thực hiện hợp đồng bất kỳ lúc nào nếu tỷ giá có lợi cho mình trong thời hạn của hợp đồng. Thực chất, giao dịch quyền chọn này được thực hiện hoàn toàn giống như giao dịch giao ngay, có điều tỷ giá do NHTM và doanh nghiệp thỏa thuận. Vô hình chung, NHTM đã xé rào tỷ giá, không tuân thủ theo quy định của NHNN về biên độ giao động tỷ giá. Để trám lại lỗ hổng đó, Ngân hàng Nhà nước đã ban luật cấm. Còn nay, số phận của quyền chọn USD/VND đang có cơ hội tái sinh. Ngân hàng Nhà nước đang xây dựng một văn bản với khả năng mở lại nghiệp vụ này, dĩ nhiên là đi kèm với những điều kiện cần thiết.11. The level of integration with the Forex market area and global derivatives Morphology exist new derivatives exchange market just at a simple level. Vietnam does not yet have the facility foreign exchange transactions, the transactions are in the form of OTC. Derivative transactions for the purpose of trading self representing í
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Anh) 2:[Sao chép]
Sao chép!

7. Quality of service
Banks have implemented foreign exchange derivative transactions in order to serve the needs of customers however still many restrictions on service quality as a fee, deposit ratio, capital Transaction process, consulting, ... not really make customer satisfaction. So far also no formal survey of how many customers are satisfied with this stuff. The cause of this is due to the price of an options contract is not really fair, now weigh the costs and benefits of protected asymmetric together should not interested in using options. Besides being the transaction procedures, the criteria for classification of bank business is different, many banks have not released the conditions of use on a website derivative operations, lack of detailed guidance from bank employees made ​​it difficult for businesses that want to use. The bank itself does not want to expand the foreign exchange derivative transactions. When there is a contract signed between the customer, the bank will have to go looking for reciprocal agreement to balance the state. We can see these restrictions gave businesses are not really happy with the use of foreign exchange derivative instruments.
8. The barriers of market
characteristics Besides showing growth at a low level, forex derivative market also reveals the limitations and create barriers to market access members as actors less diversified markets, products stop at a simple level. In addition, banks also stipulates minimum contract value of any inconsistency between the banks (Table 7). According to this criterion, it seems customers to sign a contract with Techcombank option, but there are other regulations, and also depends on whether Techcombank has found reciprocal contracts with other foreign partners.
One Other barriers to commercial banks as sellers option, banks are obliged to perform the contract, banks must determine how to choose charge enough to offset the appreciation of foreign currencies. Therefore, banks need to have so many customers to be able to mediate or harmonic balance between risk option contracts concluded with banks. Banks have to do a job as insurance for yourself by signing a contract to buy the call option with the foreign banks. Thus, option fees received from customers in the country will be paid to the seller the right to select the foreign bank should have absolutely no interest. In addition, the number of participating banks has less options market, so banks no chance of dealing with each other, forcing banks to seek self foreign partners. Besides bank exchange rate risk themselves to suffer, banks also have other risk is counterparty risk if contracting partners abroad unreliable.
9. Efficiency levels and support the stability of the foreign exchange market
Developed derivative transactions are important steps and decisive to the development of the foreign exchange market in the context of foreign exchange derivative market growing strongly around the world and Vietnam is integrating the world economy. Enterprises can use the foreign exchange derivative instruments to hedge exchange rate and profitable investment. However, in Vietnam today forex sales derivative transactions still account for a very small proportion of foreign exchange transactions, less than 10% (2011 9.5%). Even now many as desired hedging exchange rate, but can not reach the bank. Therefore, according to the experts, the forex derivative market of Vietnam was not to promote the efficiency and fails to promote its role in stabilizing the foreign exchange market, help prevent and hedging rate for businesses with international trade activities.
10. The ability to monitor and manage derivatives transactions of the monetary authorities:
forex derivative market of Vietnam newly formed, the activities on the market in the early and not go into orderliness, although the central bank has issued market-oriented activities under security objectives, but backwards, towards the banks always tend to make a profit legal risk. So in fact, have appeared a number of issues:
Firstly, the rules on foreign exchange derivative transactions has created business opportunities arbitrage. According to regulations on identifying the spot rate and the forward rate period 1999 - 2000, the banks easily calculate the exchange rate right up to a specific date in the future. Similarly, commercial banks based on the spot rate at the time of signing the contract and the amplitude specified for each term, to calculate the exchange rate futures purchased or sold (Decision No. 65, 66). By the time May, 6/2000, buying rate of the one month higher banks buying rate at the time of a May futures contract maturity. Banks buy dollars terms of customer losses compared with spot buying. But in return, the USD interest rate on international markets rising deposits, commercial banks buy dollars ready-made spot equal to the forward rate after one month, then send dollars abroad, while seeking to Author sold USD 1 month period as prescribed in 1 month forward rate of the central bank. During operation the "carry trade", the banks met three risks: (i) the difference between the selling rate of 1-month and spot buying rate futures buying rate is very small, making commercial bank foreign exchange losses . Luckily, USD interest rates enough to offset business losses term. (Ii) Ability to find customer banks agreed to buy 1-month term with banks was less, by banks to find partners, auto trading buy - sell futures. (Iii) When the supply - demand foreign currency tensions, banks have pushed spot buying rates close to the exchange rate immediately, sometimes only difference 2 VND / 1 USD traded, even by, causing exchange losses exchange spot transactions from the larger commercial banks. We can say at this stage banks has provided services to clients, both speculative activities to market risk, credit risk, operational risk of banks is very large system.
Secondly, the how the provisions of the forward rate, the spot rate has led to two strings rates deviate from several relatively large with the same period during the period 2002-2009. If the market is functioning smoothly, then this is the business opportunity arbitrage for banks. It can not happen in South Vietnam by banks react exactly alike, but there is no way reverse the transaction. But the flip side of it, has created market expectations on adjusting the exchange rate.
Third, the Swap Transaction in Vietnam no function hedging rates, which is only used when banks lack available capital VND, USD surplus. Swap transactions requires banks took higher costs if VND loans from the central bank.
Fourth, how regulations on trading options help banks violate currency trading band spot rate.
When the exchange rate volatility in the two years 2008 - 2009, in addition to forward exchange transactions, the central bank allows the application transaction currency option. Due to the exchange rate on the black market at times higher than rates in the banking system, while foreign currency supply system is limited, increased demand for foreign currency, the exchange rate is only applicable to 7 total State companies, so that banks stuck to no supply of foreign exchange sold to enterprises, while now the speculation of foreign currency. As a rule, commercial banks are allowed to sell dollars right with the list price, according to a specific amplitude in each period compared to the average rate of interbank. The time of suffocating, "black market rate" appear immediately inside the system, which is a professional option loophole bustle. Banks and customers and call option contract, the commercial bank acting as the seller right. Because the exchange rate option contracts are agreed, should not be bound by the pulsation rate. Banks and customers taking advantage of this loophole, signed option contracts at rates xref free foreign exchange market, and implementation options contract on the American model, which is now - the buyer has the right to choose implementation contract at any time if the exchange rate in their favor during the term of the contract. Indeed, option trading is done exactly the same as spot transactions, which it rates as banks and businesses deal. Invisible general, banks have torn fence rates, failure to comply with the regulations of the State Bank on exchange rate trading band. To fill the gaps, the State Bank has issued prohibition. And now, the fate of the option USD / VND who had the opportunity to regenerate. State Bank is building a document with options to restart this operation, of course, comes with the necessary conditions.
11. The degree of integration with the forex derivative market and the global area
morphology exists forex derivative market is just at a basic level. Vietnam no forex exchanges, trades in OTC. Derivative transactions for the purpose of self-employment accounted í
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: