Xuất phát từ tất cả các vấn đề nêu trên, để góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam, khoản 1 Điều 344 Bộ Luật TTDS 2004/2011 cần được xây dựng như sau:
“1. Các bên trong bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự đó nếu:
a. Bên phải thi hành là cá nhân cư trú, làm việc tại Việt Nam hoặc có tài sản tại Việt Nam vào thời điểm nộp đơn. Trường hợp bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài chỉ liên quan đến quan hệ nhân thân mà không có yêu cầu về tài sản thì không áp dụng điều kiện này.
b. Bên phải thi hành là tổ chức có trụ sở chính tại Việt Nam hoặc có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam trong trường hợp vụ việc liên quan đến hoạt động của chi nhánh văn phòng đại diện hoặc có tài sản tại Việt Nam vào thời điểm nộp đơn.”
3.2 Đối với những trường hợp không công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài
Từ quy định của Điều 356 Bộ Luật TTDS 2004/2011 đã phát sinh một số vướng mắc sau đây về mặt lý luận và thực tiễn: