Nhận diện di sản: Cồng chiêng các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng những người chơi cồng chiêng các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới Lễ cúng Bến nước...) những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài nhà rông nhà gươl rẫy bến nước nhà mồ các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên ...) v.v.Cồng chiêng là loại nhạc khí bằng hợp kim đồng, có khi pha vàng, bạc hoặc đồng đen. Cồng là loại có núm, chiêng không núm. Nhạc cụ này có nhiều cỡ, đường kính từ 20cm đến 60cm, loại cực đại từ 90cm đến 120cm. Cồng chiêng có thể được dùng đơn lẻ hoặc dùng theo dàn, bộ từ 2 đến 12 hoặc 13 chiếc, thậm chí có nơi từ 18 đến 20 chiếc.Cồng chiêng Tây Nguyên là loại nhạc cụ độc đáo, đặc sắc và đa dạng. Các dàn cồng chiêng Tây Nguyên lấy thang bồi âm tự nhiên làm cơ sở để thiết lập thang âm của riêng mình. Trong đó, mỗi biên chế của từng tộc người đều cấu tạo bởi thang 3 âm, 5 âm hay 6 âm cơ bản. Song, cồng chiêng vốn là nhạc cụ đa âm, bên cạnh âm cơ bản bao giờ cũng vang kèm một vài âm phụ khác. Thành thử trên thực tế, một dàn 6 chiêng sẽ cho ta tối thiểu 12 âm hay nhiều hơn nữa. Điều đó lý giải tại sao âm sắc cồng chiêng nghe thật đầy đặn và có chiều sâu.Về nguồn gốc, theo một số nhà nghiên cứu, cồng chiêng là "hậu duệ" của đàn đá. Trước khi có văn hóa đồng, người xưa đã tìm đến loại khí cụ đá: cồng đá, chiêng đá... tre, rồi tới thời đại đồ đồng, mới có chiêng đồng... Từ thuở sơ khai, cồng chiêng được đánh lên để mừng lúa mới, xuống đồng; biểu hiện của tín ngưỡng - là phương tiện giao tiếp với siêu nhiên... Tất cả các lễ hội trong năm, từ lễ thổi tai cho trẻ sơ sinh đến lễ bỏ mả, lễ cúng máng nước, lễ mừng cơm mới, lễ đóng cửa kho, lễ đâm trâu.. . hay trong một buổi nghe khan... đều phải có tiếng cồng chiêng như là thứ để nối kết những con người trong cùng một cộng đồng.Theo quan niệm của người Tây Nguyên, đằng sau mỗi chiếc cồng, chiêng đều ẩn chứa một vị thần. Cồng chiêng càng cổ thì quyền lực của vị thần càng cao. Cồng chiêng còn là tài sản quý giá, biểu tượng cho quyền lực và sự giàu có. Vào những ngày hội, hình ảnh những vòng người nhảy múa quanh ngọn lửa thiêng, bên những vò rượu cần trong tiếng cồng chiêng vang vọng núi rừng, tạo cho Tây Nguyên một không gian lãng mạn và huyền ảo. Cồng chiêng do vậy góp phần tạo nên những sử thi, những áng thơ ca đậm chất văn hóa Tây Nguyên vừa lãng mạn, vừa hùng tráng.Tây Nguyên, vùng núi cao nguyên rộng lớn ở phía Tây Nam Việt Nam, có diện tích 59,597 km2, nằm trong khoảng từ 107o02’ đến 109o05’ kinh độ đông, và từ 11o13 đến 15o15 vĩ độ bắc. Hiện nay, Tây Nguyên gồm năm tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm Đồng. Tây Nguyên là địa bàn sinh sống của những tộc người thuộc hai nhóm ngôn ngữ: Môn – Khơme và Malayo – Polinesien. Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơme là các dân tộc như: Bana, Xơ Đăng, Cơ Ho, Mnông, Gié Triêng, Mạ, Brâu, Rơmăm và Hrê. Nhóm ngôn ngữ Malayo – Polinesien gồm: Gia Rai, Ê Đê, Chu Ru, Raglai. Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên lại có một dàn cồng chiêng khác nhau về số lượng. Âm nhạc cồng chiêng của người Tây Nguyên rất đa dạng về bài bản, sắc thái, phong cách diễn tấu… Chúng không chỉ phô diễn nội tâm phong phú của con người, mà còn là phương tiện liên kết cộng đồng, đánh dấu những sự kiện quan trọng trong đời sống làng buôn, trong cuộc đời của mỗi con người Tây Nguyên, ở những thời điểm nhất định. Cồng chiêng và những âm thanh huyền diệu, thiêng liêng của nó có thể liên kết con người với thần linh, với môi trường thiên nhiên, với các cá nhân và cộng đồng khác, và nhờ thế mọi khát vọng của con nguời có thể được thỏa mãn. Bởi vậy, không chỉ có giá trị về mặt tinh thần, cồng chiêng còn được coi là một trong những tài sản vật chất có giá trị đặc biệt trong cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên.
đang được dịch, vui lòng đợi..
