Tô ThứcBách khoa toàn thư mở WikipediaHọ và tênTô ThứcTiếng Trung: 苏轼B dịch - Tô ThứcBách khoa toàn thư mở WikipediaHọ và tênTô ThứcTiếng Trung: 苏轼B Trung làm thế nào để nói

Tô ThứcBách khoa toàn thư mở Wikipe

Tô Thức
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Họ và tên
Tô Thức
Tiếng Trung: 苏轼
Bính âm: Sū Shì
Tự: Tử Chiêm (子瞻)
Hòa Trọng (和仲)
Hiệu: Đông Pha cư sĩ (东坡居士)
Tô Thức (Chữ Hán: 苏轼, 8/1/1037–24/8/1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.

Mục lục [ẩn]
1 Thân thế
2 Sự nghiệp văn thơ
3 Sự nghiệp chính trị
4 Nhà thư pháp
5 Họa sĩ nổi tiếng
6 Một số tác phẩm tiêu biểu
7 Khái niệm chủ yếu
8 Xem thêm
9 Liên kết ngoài
10 Ghi chú
Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]
Ông sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay là địa cấp thị Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Ông nội Đông Pha tên là Tô Tự, cha ông là Tô Tuân (蘇洵, tự là Minh Doãn, 1009-1066), mẹ ông họ Trình (?-1057) và em trai là Tô Triệt (蘇轍, tự là Tử Do, 1039-1112). Ba cha con ông đều là những nhà thơ có tiếng.

Đông Pha cưới vợ đầu là Vương Phất (1040-1065) nhỏ hơn ông ba tuổi, năm ông 18 tuổi (1055). Sau 3 năm tang vợ, ông cưới vợ thứ hai là Vương Nhuận Chi (em họ của vợ đầu) vào tháng 6 năm 1068.

Sự nghiệp văn thơ[sửa | sửa mã nguồn]
Đông Pha cùng cha và em là ba trong số tám đại văn hào lớn nhất (bát đại gia) Trung Quốc suốt bảy thế kỷ từ thế kỷ 7 đến 13. Ông giỏi cả cổ văn lẫn thơ, phú. Tất cả các tác phẩm của ông cộng lại khoảng 1 triệu chữ. Riêng về thi từ, ông có khoảng 1700 bài. Còn cổ văn của ông là "thiên hạ vô địch", cứ hạ bút là thành văn, không cần lập dàn ý, cứ như là "hành vân, lưu thủy". Âu Dương Tu mà hôm nào nhận được một bài văn của ông thì vui sướng cả ngày, còn vua Tống Thần Tông hay đọc bài của ông trong bữa ngự thiện, quên gắp cả thức ăn.

Năm 1056-1057, Đông Pha cùng cha và em vượt suốt hai tháng qua miền núi non hiểm trở lên kinh (Khai Phong) đi thi. Họ đến Khai Phong tháng 5 năm 1056 và chờ kỳ thi cho đến mùa xuân năm sau. Kỳ thi do Âu Dương Tu làm chánh chủ khảo chú trọng đến việc tìm kẻ sĩ có tài trị dân, thể lệ thi gắt gao và đích thân vua Tống Nhân Tông chọn đầu bài. Bài thứ nhất hỏi về sử hoặc chính trị, bài thứ hai là bài về tứ thư, ngũ kinh, bài thứ ba là một bài phú luận về chính trị. Năm đó, Tô Tuân không ứng thí vì không muốn ganh đua với hai con, còn cả hai anh em Đông Pha đều đỗ cao, đề bài luận về chính trị là "Hình thưởng trung hậu chi chí luận" (luận về sự trung hậu rất mực trong phép thưởng phạt).

Cuối năm 1059 đầu năm 1060, hết tang mẹ, Đông Pha cùng cha và em mất 4 tháng vượt 2.000 cây số quay trở lại kinh để dự thi. Trên đường đi Đông Pha và Tử Do làm được khoảng 200 bài thơ. Cũng như lần trước, Tô Tuân không ứng thí.

Năm 1061, làm quan ở Thiểm Tây, cùng nhân dân ở đó cầu được mưa, ăn mừng, ông làm bài "Kỉ vũ đình kí" rất nổi danh.

Năm 1071, trên đường Đông Pha rời kinh đi Hàng Châu, ông làm được rất nhiều bài thơ, bài từ. Ông ghé thăm em Tử Do (đang làm chức giáo thụ) ở Trần Châu, rồi hai anh em đi thăm Âu Dương Tu ở gần đó. Ông cùng vợ con đến Hàng Châu ngày 28 tháng 11 năm 1071. Trong suốt thời gian làm quan ở Hàng Châu, ông làm đủ thể loại thơ tả cảnh, tà tình, tả sự đau xót khi thi hành án, thơ trào phúng. Ông làm bạn với các nhà sư, đọc sách Phật. Ông rất thích ca nhi, buổi tiệc nào ông cũng có họ. Các ca nhi này quay quanh ông để ca hát và xin ông đề thơ lên quạt giấy. Do phong cảnh Hàng Châu đẹp và không khí ca nhạc tưng bừng, ông để ý tới thể từ, cải cách nó và nổi danh thành một Từ gia bậc nhất đời Tống.

Sự nghiệp chính trị[sửa | sửa mã nguồn]
Đông Pha là một nhà chính trị theo Cựu đảng do Tư Mã Quang cầm đầu. Ông là người chỉ trích mạnh mẽ nhất tân pháp của Tân đảng do Vương An Thạch cầm đầu. Ông là người theo đạo Phật, có lòng từ bi và rất mực yêu thương nhân dân, không tham ô hối lộ. Ông là người có tính cương trực, ít giữ mồm giữ miệng, có gì nói đấy nên sự nghiệp chính trị của ông đầy sóng gió.

Năm 1057, sau khi thi đậu, mẹ ông mất, ông phải cùng cha và em chịu tang, không lĩnh chức vụ gì hết. Năm 1060, Đông Pha nhận được một chức quan nhỏ là chủ bạ huyện Phúc Xương tỉnh Hà Nam. Năm 1061, nhậm chức Thiêm phán phủ Phượng Tường tỉnh Thiểm Tây. Năm 1065, vào làm việc ở Sử quán có cơ hội đọc những sách quý và các danh họa tàng trữ ở bí thư các. Năm 1066, cùng em là Tử Do xin nghỉ việc quan lo tang cho cha. Họ phải bỏ gần một năm, vượt mấy nghìn cây số để đưa quan tài cha về quê nhà chôn cất. Năm 1069, Đông Pha trở lại kinh thành nhận chức Giám quan. Suốt những năm sau đó ông cùng em đả kích mạnh mẽ các chính sách cải cách của Tân đảng như "Phép Thị Dịch", "Phép Mộ Dịch" do thừa tướng Vương An Thạch thi hành. Có lần Đông Pha bị người nhà của Vương An Thạch vu oan là lạm dụng quyền lực cướp tiền dân mua bát đĩa. Vua Thần Tông không nghe lời dèm pha mà giáng chức Đông Pha, nhưng chuyển ông ra Hàng Châu. Từ đó, Tân đảng lần lần nắm hết quyền hành trong triều, nhưng do hấp tấp thi hành các chính sách, sau khi đem quân đánh thua các nước Tây Hạ, Liêu và Đại Việt (2 lần thua Lý Thường Kiệt năm 1075, 1076), Vương An Thạch bị cắt chức và sự nghiệp chính trị bị chấm dứt. Năm 1071, Đông Pha làm quan ở Hàng Châu.

Nhà thư pháp[sửa | sửa mã nguồn]
Đông Pha là một nhà thư pháp có bút pháp liệt vào hàng nổi tiếng và có giá trị nhất.

Họa sĩ nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]
Đông Pha là một họa sĩ nổi tiếng về vẽ trúc và núi. Năm 1065, vào làm việc ở Sử quán và có cơ hội đọc những sách quý và các danh họa tàng trữ ở bí thư các.

Một số tác phẩm tiêu biểu[sửa | sửa mã nguồn]
Những tác phẩm của ông gồm có: Tiền Xích Bích phú (前赤壁賦), Hậu Xích Bích phú (hai bài phú này là hai viên ngọc của cổ văn Trung Hoa), Kỉ Vũ Đình ký...

Thủy Điệu Ca
Minh nguyệt kỉ thời hữu?
Bả tửu vấn thanh thiên:
"Bất tri thiên thượng cung khuyết,
Kim tịch thị hà niên?"
Ngã dục thừa phong qui khứ,
Hựu củng huỳnh lâu ngọc vũ,
Cao xứ bất thăng hàn.
Khởi vũ lộng thanh ảnh,
Hà tự tại nhân gian!

Chuyển chu các,
Ðê ỷ hộ,
Chiếu vô miên,
Bất ưng hữu hận,
Hà sự trường hướng biệt thời viên?
Nhân hữu bi hoan li hợp,
Nguyệt hữu âm tình viên khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.
Ðãn nguyện nhân trường cửu,
Thiên lý cộng thiền quyên.
Bản dịch
Mấy lúc có trăng thanh?
Cất chén hỏi trời xanh:
"Cung khuyết trên chính từng,
Ðêm nay là đêm nào?"
Ta muốn cưỡi gió bay lên vút,
Lại sợ lầu quỳnh cửa ngọc,
Trên cao kia lạnh buốt.
Ðứng dậy múa giỡn bóng,
Cách biệt với nhân gian!

Trăng quanh gác tía,
Cuối xuống cửa son,
Dòm kẻ thao thức,
Chẳng nên ân hận,
Sao cứ biệt li thì trăng tròn?[1]
Ðời người vui buồn li hợp,
Trăng cũng đầy vơi mờ tỏ,
Xưa nay đâu có vạn toàn.
Chỉ nguyện đời ta trường cửu,
Bay ngàn dặm cùng với thuyền quyên.[2]
Dịch thuật: Nguyễn Hiến Lê
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Trung) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Tô ThứcBách khoa toàn thư mở WikipediaHọ và tênTô ThứcTiếng Trung: 苏轼Bính âm: Sū ShìTự: Tử Chiêm (子瞻)Hòa Trọng (和仲)Hiệu: Đông Pha cư sĩ (东坡居士)Tô Thức (Chữ Hán: 苏轼, 8/1/1037–24/8/1101), tự Tử Chiêm, một tự khác là Hòa Trọng, hiệu Đông Pha cư sĩ nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc thời Tống. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống.Mục lục [ẩn] 1 Thân thế2 Sự nghiệp văn thơ3 Sự nghiệp chính trị4 Nhà thư pháp5 Họa sĩ nổi tiếng6 Một số tác phẩm tiêu biểu7 Khái niệm chủ yếu8 Xem thêm9 Liên kết ngoài10 Ghi chúThân thế[sửa | sửa mã nguồn]Ông sinh ra tại Mi Sơn, Mi Châu, nay là địa cấp thị Mi Sơn, tỉnh Tứ Xuyên. Ông nội Đông Pha tên là Tô Tự, cha ông là Tô Tuân (蘇洵, tự là Minh Doãn, 1009-1066), mẹ ông họ Trình (?-1057) và em trai là Tô Triệt (蘇轍, tự là Tử Do, 1039-1112). Ba cha con ông đều là những nhà thơ có tiếng.Đông Pha cưới vợ đầu là Vương Phất (1040-1065) nhỏ hơn ông ba tuổi, năm ông 18 tuổi (1055). Sau 3 năm tang vợ, ông cưới vợ thứ hai là Vương Nhuận Chi (em họ của vợ đầu) vào tháng 6 năm 1068.Sự nghiệp văn thơ[sửa | sửa mã nguồn]Đông Pha cùng cha và em là ba trong số tám đại văn hào lớn nhất (bát đại gia) Trung Quốc suốt bảy thế kỷ từ thế kỷ 7 đến 13. Ông giỏi cả cổ văn lẫn thơ, phú. Tất cả các tác phẩm của ông cộng lại khoảng 1 triệu chữ. Riêng về thi từ, ông có khoảng 1700 bài. Còn cổ văn của ông là "thiên hạ vô địch", cứ hạ bút là thành văn, không cần lập dàn ý, cứ như là "hành vân, lưu thủy". Âu Dương Tu mà hôm nào nhận được một bài văn của ông thì vui sướng cả ngày, còn vua Tống Thần Tông hay đọc bài của ông trong bữa ngự thiện, quên gắp cả thức ăn.Năm 1056-1057, Đông Pha cùng cha và em vượt suốt hai tháng qua miền núi non hiểm trở lên kinh (Khai Phong) đi thi. Họ đến Khai Phong tháng 5 năm 1056 và chờ kỳ thi cho đến mùa xuân năm sau. Kỳ thi do Âu Dương Tu làm chánh chủ khảo chú trọng đến việc tìm kẻ sĩ có tài trị dân, thể lệ thi gắt gao và đích thân vua Tống Nhân Tông chọn đầu bài. Bài thứ nhất hỏi về sử hoặc chính trị, bài thứ hai là bài về tứ thư, ngũ kinh, bài thứ ba là một bài phú luận về chính trị. Năm đó, Tô Tuân không ứng thí vì không muốn ganh đua với hai con, còn cả hai anh em Đông Pha đều đỗ cao, đề bài luận về chính trị là "Hình thưởng trung hậu chi chí luận" (luận về sự trung hậu rất mực trong phép thưởng phạt).Cuối năm 1059 đầu năm 1060, hết tang mẹ, Đông Pha cùng cha và em mất 4 tháng vượt 2.000 cây số quay trở lại kinh để dự thi. Trên đường đi Đông Pha và Tử Do làm được khoảng 200 bài thơ. Cũng như lần trước, Tô Tuân không ứng thí.Năm 1061, làm quan ở Thiểm Tây, cùng nhân dân ở đó cầu được mưa, ăn mừng, ông làm bài "Kỉ vũ đình kí" rất nổi danh.Năm 1071, trên đường Đông Pha rời kinh đi Hàng Châu, ông làm được rất nhiều bài thơ, bài từ. Ông ghé thăm em Tử Do (đang làm chức giáo thụ) ở Trần Châu, rồi hai anh em đi thăm Âu Dương Tu ở gần đó. Ông cùng vợ con đến Hàng Châu ngày 28 tháng 11 năm 1071. Trong suốt thời gian làm quan ở Hàng Châu, ông làm đủ thể loại thơ tả cảnh, tà tình, tả sự đau xót khi thi hành án, thơ trào phúng. Ông làm bạn với các nhà sư, đọc sách Phật. Ông rất thích ca nhi, buổi tiệc nào ông cũng có họ. Các ca nhi này quay quanh ông để ca hát và xin ông đề thơ lên quạt giấy. Do phong cảnh Hàng Châu đẹp và không khí ca nhạc tưng bừng, ông để ý tới thể từ, cải cách nó và nổi danh thành một Từ gia bậc nhất đời Tống.Sự nghiệp chính trị[sửa | sửa mã nguồn]Đông Pha là một nhà chính trị theo Cựu đảng do Tư Mã Quang cầm đầu. Ông là người chỉ trích mạnh mẽ nhất tân pháp của Tân đảng do Vương An Thạch cầm đầu. Ông là người theo đạo Phật, có lòng từ bi và rất mực yêu thương nhân dân, không tham ô hối lộ. Ông là người có tính cương trực, ít giữ mồm giữ miệng, có gì nói đấy nên sự nghiệp chính trị của ông đầy sóng gió.Năm 1057, sau khi thi đậu, mẹ ông mất, ông phải cùng cha và em chịu tang, không lĩnh chức vụ gì hết. Năm 1060, Đông Pha nhận được một chức quan nhỏ là chủ bạ huyện Phúc Xương tỉnh Hà Nam. Năm 1061, nhậm chức Thiêm phán phủ Phượng Tường tỉnh Thiểm Tây. Năm 1065, vào làm việc ở Sử quán có cơ hội đọc những sách quý và các danh họa tàng trữ ở bí thư các. Năm 1066, cùng em là Tử Do xin nghỉ việc quan lo tang cho cha. Họ phải bỏ gần một năm, vượt mấy nghìn cây số để đưa quan tài cha về quê nhà chôn cất. Năm 1069, Đông Pha trở lại kinh thành nhận chức Giám quan. Suốt những năm sau đó ông cùng em đả kích mạnh mẽ các chính sách cải cách của Tân đảng như "Phép Thị Dịch", "Phép Mộ Dịch" do thừa tướng Vương An Thạch thi hành. Có lần Đông Pha bị người nhà của Vương An Thạch vu oan là lạm dụng quyền lực cướp tiền dân mua bát đĩa. Vua Thần Tông không nghe lời dèm pha mà giáng chức Đông Pha, nhưng chuyển ông ra Hàng Châu. Từ đó, Tân đảng lần lần nắm hết quyền hành trong triều, nhưng do hấp tấp thi hành các chính sách, sau khi đem quân đánh thua các nước Tây Hạ, Liêu và Đại Việt (2 lần thua Lý Thường Kiệt năm 1075, 1076), Vương An Thạch bị cắt chức và sự nghiệp chính trị bị chấm dứt. Năm 1071, Đông Pha làm quan ở Hàng Châu.
Nhà thư pháp[sửa | sửa mã nguồn]
Đông Pha là một nhà thư pháp có bút pháp liệt vào hàng nổi tiếng và có giá trị nhất.

Họa sĩ nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]
Đông Pha là một họa sĩ nổi tiếng về vẽ trúc và núi. Năm 1065, vào làm việc ở Sử quán và có cơ hội đọc những sách quý và các danh họa tàng trữ ở bí thư các.

Một số tác phẩm tiêu biểu[sửa | sửa mã nguồn]
Những tác phẩm của ông gồm có: Tiền Xích Bích phú (前赤壁賦), Hậu Xích Bích phú (hai bài phú này là hai viên ngọc của cổ văn Trung Hoa), Kỉ Vũ Đình ký...

Thủy Điệu Ca
Minh nguyệt kỉ thời hữu?
Bả tửu vấn thanh thiên:
"Bất tri thiên thượng cung khuyết,
Kim tịch thị hà niên?"
Ngã dục thừa phong qui khứ,
Hựu củng huỳnh lâu ngọc vũ,
Cao xứ bất thăng hàn.
Khởi vũ lộng thanh ảnh,
Hà tự tại nhân gian!

Chuyển chu các,
Ðê ỷ hộ,
Chiếu vô miên,
Bất ưng hữu hận,
Hà sự trường hướng biệt thời viên?
Nhân hữu bi hoan li hợp,
Nguyệt hữu âm tình viên khuyết,
Thử sự cổ nan toàn.
Ðãn nguyện nhân trường cửu,
Thiên lý cộng thiền quyên.
Bản dịch
Mấy lúc có trăng thanh?
Cất chén hỏi trời xanh:
"Cung khuyết trên chính từng,
Ðêm nay là đêm nào?"
Ta muốn cưỡi gió bay lên vút,
Lại sợ lầu quỳnh cửa ngọc,
Trên cao kia lạnh buốt.
Ðứng dậy múa giỡn bóng,
Cách biệt với nhân gian!

Trăng quanh gác tía,
Cuối xuống cửa son,
Dòm kẻ thao thức,
Chẳng nên ân hận,
Sao cứ biệt li thì trăng tròn?[1]
Ðời người vui buồn li hợp,
Trăng cũng đầy vơi mờ tỏ,
Xưa nay đâu có vạn toàn.
Chỉ nguyện đời ta trường cửu,
Bay ngàn dặm cùng với thuyền quyên.[2]
Dịch thuật: Nguyễn Hiến Lê
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Trung) 2:[Sao chép]
Sao chép!
灵魂碗百科全书维基百科名称板魂中国:苏轼拼音:石涂:涂Chiem(子瞻)和市仲(和仲)效果:东坡躺倒(东坡居士)协会(汉字:苏轼,8/1 / 1037年至一○二四年/一千一百○一分之八),逐渐占据,另一个自我安和仲,品牌东坡躺在所谓的苏东坡,作家,诗人,著名中国宋时期。他被任命为八巨头塘公路之一。目录[隐藏] 1传记2诗歌事业3政治事业4楼书画艺术家著名的5 6有些作品典型的7概念主要是8参见9外部链接10注传记[编辑| 编辑源]他出生在眉山,密咒,现在的地级市眉山,四川省。祖父名叫苏东坡自我,他的父亲是每周一次(苏洵自我是铭贤,1009至1066年),他的母亲,他们提交(?-1057)和他的弟弟,激进(苏辙,就是自由本身, 1039年至1112年)。父子三人都是他所知道的诗人。东坡第一夫人王飘扬(1040年至1065年),比自己小三岁,他是18年(1055)。经过三年的丧妻子,他娶了他的第二任妻子是国王彼得驰(他的第一任妻子的表弟)六月的1068的诗歌生涯[编辑| 编辑源]东坡相同的父亲和哥哥都是八大作家(碗巨人)中中国的七个世纪从公元7世纪到颈部13.他的散文和诗歌好,丰富。他所有的作品约100万字联。至于性能,因为,他拥有约1700项。他的建议是“天堂的冠军”写在下笔,没有大纲,作为一个“行为上,节约水”。欧阳修昨天收到他的散文是一种愉悦一整天,而叫黄申通或读他在他吃饭的文章,不忘拿起食物。在1056年至1057年,父亲和东坡在过去的两个月里,他们达到了坚固(开封)的山参加考试。他们来到开封市1056年5月,等待考试到明年春天。考试由欧阳修担任首席大师的研究重点放在如何找到谁把天才,严格的比赛规则,并亲自挑选NHAN童童头后王的人。首先对历史或政治职位的问题,所有二是所有关于四封信,队伍的业务,第三是政治的说法各不相同。这一年,每周不作为候选人不希望与两个孩子竞争,俩兄弟都停东坡高,政治作文题目是“图奖金,甚至后期支出的推理”(约中卫盈利的水平允许的)。在后期1059 1060年初,所有哀悼他的母亲,父亲和哥哥东坡耗时4的增幅达2000公里的经济回报的较量。一路上东坡,从而大约200首。和以前一样,每周不人选。在1061,作为陕西省的官员,百姓有风雨桥,庆祝,他的歌曲“家事法律程序环球人物”非常有名。1071,在路上东坡离开杭州,他做了很多诗歌,全部来自。他参观了我自由(电流和地区教育官员)在陈洲,和两个弟弟前往欧阳修附近。他和他的妻子和孩子到杭州11月28日1071在杭州的时候,他做了足够的诗歌流派的场景,不当性行为,所描述的悲惨执法时,讽刺。他与和尚交了朋友,读佛经。他喜欢唱歌的孩子,方为他提供了他们。这儿科病例围绕在他周围唱歌,让他呼吸的纸扇。由于风景优美,气氛喜庆杭州乐,他说是从,改革成一个宋代著名在大多数情况下,政治生涯[编辑| 编辑源]东坡是司马广为首的前政党。他是王安石为首的新法律阵线党的强烈的批评。他是一个佛教徒,富有同情心,非常热爱的人,不是贪污贿赂。他正直,一些握住你的舌头,没有人说应该是他政治生涯的风雨,在1057,合格后,他的母亲去世,他与他的父亲和哥哥成殇,在所有位置无场。1060,东坡得到一个较小的岗位作为主目录下南Xuong区福。1061,就职典礼添说,芳TUONG陕西省政府。1065年,工作在使馆有机会阅读这些书籍和艺术家季度持有书记。1066,他们自由地辞职悼念父亲的担心。他们花了近一年的时间,已经达到了几千公里去他家的父亲土葬。1069,东坡回城堡假设导演关注。在接下来的几年,他和哥哥强烈抨击新党的改革政策“许可营销服务”,“盗墓服务管理局”宰相王安石被执行。东坡曾是王安石人污蔑家是滥用权力抢人买的菜肴。申通王不听批评者认为降级东坡,但他感动了杭州。此后,新党曾一度被关押在政府一切权力,而是由草率政策的落实,国后失去了军队进攻西夏,辽和大学越南(李常杰失去了2倍,1075,1076 ),王安石削减公务员和政治生涯的结束。1071年,东坡在杭州做。书法[编辑| 编辑源]东坡书法的风格都列在著名的和最有价值的。艺术家著名的[编辑| 编辑源]东坡是个艺术家著名书画建筑和山峰。1065年,为在大使馆工作,并有机会读的书和艺术家季度持有书记。一些代表作品[编辑| 编辑源]他的作品包括:货币赤壁变化(前赤壁赋),赤壁富孝(二广泛的文章是中国古代文学的两个宝石),论文集武庭签署...卡妙钙明存在的四分之一世纪?诱饵自然的葡萄酒吧的问题:“没有先知与神的规定,?营销金总裁哈老年”雅过去性过剩的海关规定,也有长的荧光珠的舞者,促进了高土地的任何焊接。运行华丽的酒吧舞女形象,哈自己在人间!移动周期,家庭注意,点燃了无数的报纸,真正的猎鹰有限,哈是方向公园特别的吗?人的离合器节双有机,有机音悦候补委员,尝试全南的脖子。丹阮的永恒,上帝的公义社会提出的冥想。翻译几次与月球?把一杯蓝的问题:“提供备用对个人,今晚是黑夜?”我想乘风飙升飙升,后门珍珠怕琼地板,寒意在其他高。站起来跳舞开玩笑球,孤立于人类世界!月亮挂在紫色的,后期下降门的儿子,大教堂谁看,事实并非如此遗憾,明星满月就特立?[1]人生谁起伏离合,也充满了月球三轮,那里有成千上万的整个直到现在。只是祈祷我们永生,飞行数千英里的船只捐赠的。[2]翻译艺术:阮HIEN乐





























































































đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: