Nhạc cách mạng, thường được gọi nhạc đỏ, là một dòng của tân nhạc Việt dịch - Nhạc cách mạng, thường được gọi nhạc đỏ, là một dòng của tân nhạc Việt Trung làm thế nào để nói

Nhạc cách mạng, thường được gọi nhạ

Nhạc cách mạng, thường được gọi nhạc đỏ, là một dòng của tân nhạc Việt Nam gồm những bài hát sáng tác trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương, ở miền Bắc Việt Nam và vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam và sau năm 1975 khi Việt Nam thống nhất. Khái niệm "nhạc đỏ" chỉ hay dùng trong nhân dân (để phân biệt với "nhạc xanh", "nhạc vàng") và chỉ có từ khoảng đầu thập niên 1990 trở đi, phía nhà nước hay gọi là nhạc cách mạng, nhạc truyền thống hay nhạc chính thống. Tuy nhiên biểu tượng của cách mạng trong quang phổ chính trị là màu đỏ, nên gọi nhạc đỏ cũng như nhạc cách mạng vậy.

Các ca khúc nhạc đỏ thường để cổ vũ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, phục vụ kháng chiến, truyền đạt những chính sách của nhà nước, khuyến khích tình yêu lý tưởng cộng sản, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, và những bài hát trữ tình cách mạng, thể hiện tình yêu quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động, xây dựng, tinh thần lạc quan, yêu đời, cống hiến và có tính cộng đồng. Các ca khúc nhạc đỏ thường ít tính hiện thực hóa mà mang tính lý tưởng hóa hay lãng mạn hóa cao, nhưng khác với các ca khúc thời tiền chiến tính lãng mạn tách rời đời sống, thường không có không gian hoặc thời gian cụ thể, nhạc đỏ đặt tính lãng mạn, lý tưởng hóa vào cuộc sống xã hội, có không gian và thời gian cụ thể, và thực tế hóa.

Các bài hát nhạc đỏ phần lớn thuộc dòng thính phòng, được hát bởi các giọng tenor và soprano, dàn hợp xướng, và âm hưởng dân ca, giai điệu phức tạp nhưng lời nhiều bài bình dị đi vào quần chúng số đông. Không kể các bài hành khúc, tổ khúc, hợp xướng thường hát tốp ca hay hợp xướng, phần lớn các bài nhạc đỏ hát bằng giọng trưởng quãng âm cao và rộng, sáng, đôi khi kèm hợp xướng. Nhạc đỏ thường theo điệu March (hành khúc), Valse, Slow Waltz hay Boston, Slow Ballad, Slow Surf, Blues, đến Chachacha, Disco, một số là các trường ca giai điệu phức tạp. Tính cách mạng còn thể hiện trong nhiều tác phẩm khí nhạc hay nhạc viết cho trẻ em.

Nhạc đỏ cùng với nhạc dân ca, truyền thống, opera nhạc kịch và nhạc giao hưởng là những thể loại âm nhạc duy nhất được phát trên đài phát thanh Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Bắc (nhạc giao hưởng chủ yếu là các tác giả Liên Xô như Sergei Taneyev,Shostakovich, Prokofiev, Myaskovsky, Rodion Shchedrin,...ảnh hưởng rất lớn đến âm nhạc miền bắc lúc đó, kể cả thanh, khí nhạc, nhạc phim, sân khấu, ngoài ra còn có Tchaikovsky, Mikhail Glinka, Chopin, Mozart,...). Tuy không có chủ trương kiểm duyệt công khai, nhưng âm nhạc thời kỳ trước 1975 tại miền Bắc và nhạc đỏ có sự định hướng, chỉ đạo và kiểm soát của lãnh đạo và nhà nước. Với mong muốn tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN thời trước Đổi mới, nên các bài nhạc đỏ thường có tính cách mạng, tính chiến đấu cao về mặt tư tưởng, thoát ly khỏi tư tưởng chủ nghĩa cá nhân. Các bài nhạc đỏ thường thể hiện tính cộng đồng rất cao, và theo hướng lành mạnh hóa văn hóa tư tưởng. Khác với các dòng nhạc khác thường khai thác tình yêu cá nhân là chủ đạo, mà xã hội hay thiên nhiên chỉ làm nền hay mang tính minh họa, nhạc đỏ không có tình yêu cá nhân tách rời xã hội. Tình yêu cá nhân phải gắn bó với tình yêu quê hương, đất nước, cộng đồng, thậm trí mở lòng ra cả nhân loại, gắn với chiến đấu, lao động, học tập, công tác, và chỉ có tình yêu chung thủy, đợi chờ, tình cảm không bị chi phối bởi vật chất được nhắc tới, không có thất tình, cô đơn, yếu đuối. Do bị kiểm soát chặt nên các ca khúc nhạc đỏ thường gò bó về tư tưởng, thiếu cái Tôi cá nhân, cho dù nó thể hiện tư tưởng rất cao thượng và rộng lớn. Âm nhạc không chịu sự chi phối của thị trường, tiền bạc, không theo cung cầu, do đó hạn chế các ca khúc thị trường sáng tác theo thị hiếu (nở rộ miền nam trước 1975 và sau Đổi mới). Nhưng mặt khác kiểm soát chặt cũng hạn chế sáng tạo của các nhạc sĩ, và các tư tưởng lớn thường nhân dân không nắm bắt kịp, ít chạm được tới quần chúng bình dân, và sau thời Đổi mới, tâm lý xã hội có nhiều chuyển biến, các ca khúc nhạc đỏ xét về tư tưởng càng thể hiện tính lý tưởng hóa.

Một số nhạc sĩ nhạc đỏ tiêu biểu như Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Duy, Văn Cao, Tô Hải, Nguyễn Văn Tý, Phạm Tuyên, Huy Du, Hoàng Việt, Hoàng Vân, Phan Huỳnh Điểu, Diệp Minh Tuyền, Chu Minh, Hoàng Hiệp, Hoàng Hà, Trần Kiết Tường, Lư Nhất Vũ, Trần Long Ẩn, Phạm Minh Tuấn, Văn Chung, Xuân Hồng, Thuận Yến, Trần Hoàn, Nguyễn Đức Toàn, Nguyễn Văn Thương,...

Những ca sĩ nổi tiếng của nhạc đỏ (cũng thường là các ca sĩ dòng thính phòng) có thể kể đến như: Quốc Hương, Trần Khánh, Trần Thụ, Trần Chất, Trung Kiên, Quý Dương, Trần Hiếu, Tiến Thành, Hữu Nội, Kiều Hưng, Thanh Huyền, Thương Huyền, Bích Liên, Tường Vi, Tân Nhân, Kim Nhớ, Kim Ngọc, Diệu Thúy, Mỹ Bình, Vũ Dậu, Lê Dung, Tiến Thành, Quang Thọ, Doãn Tần, Thúy Hà, Thanh Hoa, Thu Hiền, Trung Đức, Tuấn Phong, Quang Lý, Bích Việt, Trọng Tấn, Đăng Dương, Việt Hoàn, Tạ Minh Tâm, Quang Hưng, Thanh Thúy, Cao Minh, Anh Thơ, Phạm Phương Thảo, Lan Anh, Tân Nhàn... Do nhạc đỏ nhiều bài rất nhiều người hát kể cả các ca sĩ không chuyên dòng nhạc này, nên trừ số rất ít, mỗi ca sĩ nổi bật ở một vài bài.

Giống như các nhạc sỹ và nhạc công của miền Bắc trong thời kỳ này, họ chủ yếu được đào tạo ở nhạc viện trong nước và các nhạc viện thuộc Liên Xô và các nước Đông Âu.[cần dẫn nguồn]

Trước 1945 cũng có những ca khúc vẫn được xếp vào dòng nhạc đỏ như bài Cùng nhau đi Hồng binh của Đinh Nhu, một số bài hát của Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước... Nhưng phải đến khi xảy ra cuộc Chiến tranh Việt - Pháp, nhiều nhạc sĩ lãng mạn đi theo kháng chiến sáng tác những ca khúc mới thì nhạc đỏ mới thực sự hình thành.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Trung) 1: [Sao chép]
Sao chép!
美国革命,俗称红音乐是新越南包括音乐组成,第一次印度支那战争,越南北部和南部的越南解放越南战争期间和之后 1975年时线越南。概念的"红色乐队"或只在人 (而不是"绿带","黄音乐"),只能从 90 年代初起,国家或所谓的革命音乐、 传统音乐或主流音乐。然而在政治光谱中革命的象征是红色、 红色,以及音乐应该叫美国革命。Các ca khúc nhạc đỏ thường để cổ vũ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, phục vụ kháng chiến, truyền đạt những chính sách của nhà nước, khuyến khích tình yêu lý tưởng cộng sản, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, và những bài hát trữ tình cách mạng, thể hiện tình yêu quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động, xây dựng, tinh thần lạc quan, yêu đời, cống hiến và có tính cộng đồng. Các ca khúc nhạc đỏ thường ít tính hiện thực hóa mà mang tính lý tưởng hóa hay lãng mạn hóa cao, nhưng khác với các ca khúc thời tiền chiến tính lãng mạn tách rời đời sống, thường không có không gian hoặc thời gian cụ thể, nhạc đỏ đặt tính lãng mạn, lý tưởng hóa vào cuộc sống xã hội, có không gian và thời gian cụ thể, và thực tế hóa.Các bài hát nhạc đỏ phần lớn thuộc dòng thính phòng, được hát bởi các giọng tenor và soprano, dàn hợp xướng, và âm hưởng dân ca, giai điệu phức tạp nhưng lời nhiều bài bình dị đi vào quần chúng số đông. Không kể các bài hành khúc, tổ khúc, hợp xướng thường hát tốp ca hay hợp xướng, phần lớn các bài nhạc đỏ hát bằng giọng trưởng quãng âm cao và rộng, sáng, đôi khi kèm hợp xướng. Nhạc đỏ thường theo điệu March (hành khúc), Valse, Slow Waltz hay Boston, Slow Ballad, Slow Surf, Blues, đến Chachacha, Disco, một số là các trường ca giai điệu phức tạp. Tính cách mạng còn thể hiện trong nhiều tác phẩm khí nhạc hay nhạc viết cho trẻ em.Nhạc đỏ cùng với nhạc dân ca, truyền thống, opera nhạc kịch và nhạc giao hưởng là những thể loại âm nhạc duy nhất được phát trên đài phát thanh Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Bắc (nhạc giao hưởng chủ yếu là các tác giả Liên Xô như Sergei Taneyev,Shostakovich, Prokofiev, Myaskovsky, Rodion Shchedrin,...ảnh hưởng rất lớn đến âm nhạc miền bắc lúc đó, kể cả thanh, khí nhạc, nhạc phim, sân khấu, ngoài ra còn có Tchaikovsky, Mikhail Glinka, Chopin, Mozart,...). Tuy không có chủ trương kiểm duyệt công khai, nhưng âm nhạc thời kỳ trước 1975 tại miền Bắc và nhạc đỏ có sự định hướng, chỉ đạo và kiểm soát của lãnh đạo và nhà nước. Với mong muốn tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN thời trước Đổi mới, nên các bài nhạc đỏ thường có tính cách mạng, tính chiến đấu cao về mặt tư tưởng, thoát ly khỏi tư tưởng chủ nghĩa cá nhân. Các bài nhạc đỏ thường thể hiện tính cộng đồng rất cao, và theo hướng lành mạnh hóa văn hóa tư tưởng. Khác với các dòng nhạc khác thường khai thác tình yêu cá nhân là chủ đạo, mà xã hội hay thiên nhiên chỉ làm nền hay mang tính minh họa, nhạc đỏ không có tình yêu cá nhân tách rời xã hội. Tình yêu cá nhân phải gắn bó với tình yêu quê hương, đất nước, cộng đồng, thậm trí mở lòng ra cả nhân loại, gắn với chiến đấu, lao động, học tập, công tác, và chỉ có tình yêu chung thủy, đợi chờ, tình cảm không bị chi phối bởi vật chất được nhắc tới, không có thất tình, cô đơn, yếu đuối. Do bị kiểm soát chặt nên các ca khúc nhạc đỏ thường gò bó về tư tưởng, thiếu cái Tôi cá nhân, cho dù nó thể hiện tư tưởng rất cao thượng và rộng lớn. Âm nhạc không chịu sự chi phối của thị trường, tiền bạc, không theo cung cầu, do đó hạn chế các ca khúc thị trường sáng tác theo thị hiếu (nở rộ miền nam trước 1975 và sau Đổi mới). Nhưng mặt khác kiểm soát chặt cũng hạn chế sáng tạo của các nhạc sĩ, và các tư tưởng lớn thường nhân dân không nắm bắt kịp, ít chạm được tới quần chúng bình dân, và sau thời Đổi mới, tâm lý xã hội có nhiều chuyển biến, các ca khúc nhạc đỏ xét về tư tưởng càng thể hiện tính lý tưởng hóa.Một số nhạc sĩ nhạc đỏ tiêu biểu như Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Duy, Văn Cao, Tô Hải, Nguyễn Văn Tý, Phạm Tuyên, Huy Du, Hoàng Việt, Hoàng Vân, Phan Huỳnh Điểu, Diệp Minh Tuyền, Chu Minh, Hoàng Hiệp, Hoàng Hà, Trần Kiết Tường, Lư Nhất Vũ, Trần Long Ẩn, Phạm Minh Tuấn, Văn Chung, Xuân Hồng, Thuận Yến, Trần Hoàn, Nguyễn Đức Toàn, Nguyễn Văn Thương,...Những ca sĩ nổi tiếng của nhạc đỏ (cũng thường là các ca sĩ dòng thính phòng) có thể kể đến như: Quốc Hương, Trần Khánh, Trần Thụ, Trần Chất, Trung Kiên, Quý Dương, Trần Hiếu, Tiến Thành, Hữu Nội, Kiều Hưng, Thanh Huyền, Thương Huyền, Bích Liên, Tường Vi, Tân Nhân, Kim Nhớ, Kim Ngọc, Diệu Thúy, Mỹ Bình, Vũ Dậu, Lê Dung, Tiến Thành, Quang Thọ, Doãn Tần, Thúy Hà, Thanh Hoa, Thu Hiền, Trung Đức, Tuấn Phong, Quang Lý, Bích Việt, Trọng Tấn, Đăng Dương, Việt Hoàn, Tạ Minh Tâm, Quang Hưng, Thanh Thúy, Cao Minh, Anh Thơ, Phạm Phương Thảo, Lan Anh, Tân Nhàn... Do nhạc đỏ nhiều bài rất nhiều người hát kể cả các ca sĩ không chuyên dòng nhạc này, nên trừ số rất ít, mỗi ca sĩ nổi bật ở một vài bài.Giống như các nhạc sỹ và nhạc công của miền Bắc trong thời kỳ này, họ chủ yếu được đào tạo ở nhạc viện trong nước và các nhạc viện thuộc Liên Xô và các nước Đông Âu.[cần dẫn nguồn]
Trước 1945 cũng có những ca khúc vẫn được xếp vào dòng nhạc đỏ như bài Cùng nhau đi Hồng binh của Đinh Nhu, một số bài hát của Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước... Nhưng phải đến khi xảy ra cuộc Chiến tranh Việt - Pháp, nhiều nhạc sĩ lãng mạn đi theo kháng chiến sáng tác những ca khúc mới thì nhạc đỏ mới thực sự hình thành.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Trung) 2:[Sao chép]
Sao chép!
音乐的革命,通常被称为红带,是一条线的印度支那战争期间由现代越南音乐组成的歌曲,在越南北部和南部地区战争期间释放越南越南战争,后来在1975年时,越南是统一。对“红歌”,只有在人们习惯(从“绿色带”区分开来,“黄色音乐”),只有从上世纪90年代初开始的概念,国家或者叫革命性的音乐,音乐传统或主流音乐。但在政治光谱革命的标志是红色的,所以叫红乐队如此具有革命性的音乐,这些歌曲通常是红色的助威士兵的士气,服务性,电视在国家政策的达成,鼓励热爱共产主义理想,社会主义的理想和革命抒情歌曲,表达爱心的国家或欢呼的劳动,建设,乐观,热爱生活,奉献精神和团体精神。歌曲往往不那么红认识到大自然理想化或浪漫化高,但除此之外战前歌曲浪漫分居的生活,往往没有足够的空间或特定时间红带集浪漫,理想化的社会生活中,有没有具体的时间和空间,现实化。红色歌曲大多是从室内线路,由男高音唱和女高音歌唱家,合唱和回声民俗,复杂的旋律,但很多职位微薄的利润进入大规模的数字。不顾一切游行,套房,常唱合唱或合唱团,大多数歌曲音调唱的红头高和宽间距范围内,明亮,有时会伴随着合唱团。红色音乐的曲调通常月(3月),华尔兹,慢华尔兹或波士顿民谣慢,慢冲浪,蓝调,到Chachacha,迪斯科,有些是复杂的音诗。革命也表示,在许多器乐作品和音乐为孩子们写的。音乐红色民俗,传统,歌剧,音乐剧,交响乐是音乐的唯一体裁上播放收音机从1954年禁止越南1975年在北方(主要是交响乐作者谢尔盖塔涅耶夫为苏联,肖斯塔科维奇,普罗科菲耶夫,Myaskovsky,罗迪谢德林,......极大地影响了音乐在北其中,包括酒吧,器乐,配乐,戏剧,除了柴可夫斯基,作曲家格林卡,肖邦,莫扎特,...)。虽然没有公开的审查制度,但音乐时期1975年之前,在领导和国家的北部和红光波段方向,指挥和控制。希望提高装修前社会主义时期,所以红歌经常革命,激进的思想高度,从个人主义思想逃跑。红色轨迹显示出社会各界往往非常高,而健康的思想文化的前进方向。不像其他的音乐经常探讨爱情作为一个关键的个人,社会和自然为背景,或只是为了说明,红色的音乐没有个人的爱的社会排斥。爱个人必须致力于热爱祖国,民族,社会,甚至开放给全人类,贴战斗,劳动,学习,工作,只有忠贞不渝的爱情,等待,由物质所提到的,没有失恋,孤独,软弱的感情不占主导地位。由于被控制,使红歌往往只限于在思想上,缺乏个人的我,即使它是一个非常高尚的思想和广阔的。音乐不是由市场,货币的影响,而不是根据供求关系,从而限制了市场首歌曲组成的口味(南绽放1975年之前,后来又创新)。但在另一方面,控制也限制了音乐家的创造能力,和伟大的思想家往往让人没有赶上,少碰为人民群众和装修后,更多的社会心理变化,红曲作为表达理想化的想法。一些红色音乐家琉胡福典型,难道富润郡,阮春Khoát,范维战和范曹,海,阮凡泰,范宣,伊杜,黄越,黄文,潘黄长发妙,宣喋胡志明市,楚胡志明市,晃HIEP,晃哈,陈武文杰TUONG,卢山一武,陈隆安,范胡志明市疃,范颂绚香,顺颜,陈的还,阮德全胜,阮文商信,......歌手的著名的红乐队(也通常是室歌手)可以被列为:富国梅家,陈德良庆,陈星期四陈德良代理的Trung坚,贵阳,陈HIEU,田清,胡河内,侨鸿,清县夫人商信县夫人,碧连,TUONG六,谈嗯顸,金我,玉金,妙翠,我平,武斗,黎勇,田清,广芹苴和杜安谭翠哈,清化,周四HIEN忠德疃海防,广宁LY,越南碧,仲潭,党平阳,越南完成,钽胡志明市谭广红,清翠,曹胡志明市映寿,范芳邵族,兰映,无情......因为红的音乐很多很多人都唱即使是非专业歌手这样的音乐,所以,除非一些非常小,每个艺术家特色的文章。像在此期间音乐家和北方的音乐人,他们主要是受过音乐学院国内外音乐学院的苏联和东欧欧洲。[来源请求] 1945年以前的歌曲也已经把红色的音乐走在一起像所有庭新和成洪战,难道富润郡,琉胡福的一些歌曲......但直到后越南发生战争-法国,许多音乐家跟随性的浪漫创作新的歌曲,新红乐队实际上形成。













đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: