Khởi nghiệp là một công cụ hữu ích giúp giải phóng các hoạt động sáng  dịch - Khởi nghiệp là một công cụ hữu ích giúp giải phóng các hoạt động sáng  Anh làm thế nào để nói

Khởi nghiệp là một công cụ hữu ích

Khởi nghiệp là một công cụ hữu ích giúp giải phóng các hoạt động sáng tạo từ sự cứng nhắc của hệ thống hạ tầng đã quá phát triển, theo cùng cách chủ nghĩa tư bản đã làm với chế độ phong kiến. Thông qua các nỗ lực khởi nghiệp, doanh nghiệp có thể kích thích sự thay đổi căn bản về phát minh và đổi mới, và đồng thời làm mất ổn định các hình thức và nội dung của một hệ thống kinh tế hiện có, đẩy nó vào một biến đổi triệt để hơn. Hơn nữa, những nỗ lực kinh doanh/khởi nghiệp chỉ có thể hoạt động hiệu quả trong một môi trường tồn tại cơ chế thị trường và hệ thống giá cả giúp điều phối các hoạt động kinh tế theo cách người tham gia thị trường có thể đạt được lợi ích thương mại cao hơn chi phí bỏ ra. Khi điều này xảy ra, các doanh nhân tương lai nên tham gia vào công việc kinh doanh sinh lợi nhuận. Cạnh tranh cũng sẽ đẩy các doanh nghiệp thua lỗ (thiếu hiệu quả, thiếu năng lực) ra khỏi thị trường. Việc tiếp quản các nguồn lực và lợi nhuận trong trò chơi thị trường thường cho thấy áp lực khởi nghiệp gây ra bởi những phần thưởng không cân xứng và cả sự trừng phạt bất cân xứng trong hệ thống thị trường.

Bước sang kỷ nguyên mới, nhiều học giả cũng chuyển trọng tâm sang mối liên hệ tự nhiên giữa sáng tạo/đổi mới và khởi nghiệp (ví dụ, Brown, Davidsson & Wiklund,2001; Kaufmann, 2004; Gilson & Shalley, 2004; Miron, Erez & Naveh, 2004; McAdam & Keogh, 2004). Brown, Davidsson và Wiklund (2001, [4]) nhấn mạnh sự cần thiết phải có các chiến lược có thể kiểm định bằng phương pháp thực nghiệm để tiếp tục phát triển giả thiết rằng “quản lý khởi nghiệp, được định nghĩa là một tập hợp các biện pháp quản lý dựa trên cơ hội, có thể giúp các doanh nghiệp giữ nguyên vai trò thiết yếu và đóng góp cho quá trình tạo ra giá trị ở cấp độ doanh nghiệp và xã hội.”

Những thay đổi do khởi nghiệp đem lại không chỉ dừng lạiở những ảnh hưởng trong khởi nghiệp và chu kỳ mạo hiểm, mà còn lan rộng ra cộng đồng các doanh nghiệp thành lập tốt, bao gồm cả công ty đa quốc gia. Ahuja và Lampert (2001, [5]) giải quyết các vấn đề quan trọng và thiết thực về việc làm thế nào các công ty đã thành lập có thể tạo ra đột phá về đổi mới, bằng cách dựa vào khái niệm ‘doanh nghiệp khởi nghiệp’. Đó là các công ty đã thành công thiết lập lại tinh thần khởi nghiệp, qua đó nâng cao năng lực sáng tạo.

Sự khác biệt trong lịch sử văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc xác định độ lệch của sự tiến bộ và thịnh vượng giữa phương Đông và phương Tây. Nếu Birzner (1999, [6]) nói về tinh thần khởi nghiệp gắn với giá trị hệ thống của cả xã hội và chính phủ Mỹ, thì Worris và Leung (2010, [7]) lại chỉ ra những khác biệt về sự sáng tạo giữa phương Đông và phương Tây vẫn còn tồn tại và những khác biệt này có thể được xem xét dựa trên sự khác biệt về văn hóa và áp lực xã hội nhiều hơn là dựa vào tính mới lạ/độc đáo hoặc tính hữu dụng/phù hợp.

Chuẩn mực xã hội và bối cảnh thực tế cũng giúp dự đoán sự khác biệt về văn hóa. Nhìn lại thời kỳ đô hộ từ cuối thế kỷ 19 ở các nước Đông Á (như Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc), xếp hạng thấp của các tầng lớp kinh doanh trong xã hội đã cho thấy sự khác biệt, cản trở quyết tâm khởi nghiệp và đổi mới, thậm chí là cả sự thích ứng của các đổi mới hiện có. Quá trình chuyển đổi sôi động sau đó diễn ra kinh tế Đông Á, như Nhật Bản, có lợi từ sự thay đổi ý thức hệ của giới elite khi nhận ra giá trị của khởi nghiệp và cố gắng thể chế hóa xã hội dân sự – nơi đổi mới và hoạt động sáng tạo được ưa chuộng (Isaksen và Ekvall, 2010, [8]).

Ở cấp độ xã hội, Bohm (1968, [9]) đặt ra câu hỏi về điều gì ngăn cản phần lớn người dân ở một đất nước đi đến sáng tạo: “Các khả năng sáng tạo của trí óc nói chung là không hoạt động” là kết quả của sự nhầm lẫn phổ biến giữa ‘các sáng tạo’ và ’máy móc’ – vốn rất dai dẳng khiến người ta khó có thể nhận thức được sự thiếu sáng tạo của một người. Thức tỉnh quyền lực kinh doanh đòi hỏi hiệu suất sáng tạo của các doanh nhân.

Đổi mới tại các công ty khởi nghiệp tư nhân trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam chỉ xảy ra trong môi trường thích hợp, nơi sở hữu tài sản tư nhân được công nhận đầy đủ và thị trường tồn tại cho phép cạnh tranh thực sự (McMillan và Woodruff, 2002, [10]) Quay trở lại những ngày đầu của doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới kinh tế ở Việt Nam, ngay trong giai đoạn khủng hoảng 1988-1992 – khu vực tư nhân, sau đó đến các doanh nghiệp kinh doanh quy mô nhỏ, đã tăng thêm 6,4 triệu việc làm cho nền kinh tế (tăng từ 3,8 triệu lên 10,2 triệu), trong khi khu vực nhà nước giảm 1,1 triệu việc làm (từ 4,1 triệu xuống còn 3,0 triệu), và khu vực hợp tác quản lý nhà nước giảm 2,1 triệu việc làm (từ 20,7 triệu còn 18,6 triệu). Trong giai đoạn tiếp theo 1992-1995, 2,4 triệu việc làm tiếp tục được tạo ra bởi các DNNVV Việt Nam.

Liên quan đến tính bấp bênh của công việc, Probst et al. (2007, [11]) nhìn vào năng suất, các yếu tố cản trở năng suất và sự sáng tạo để kết luận rằng, tính bấp bênh trong công việc có thể cản trở khả năng sáng tạo của nhân viên. Tuy nhiên,sự bất ổn trong công việc có thể có một số tác động lợi ích vừa phải về năng suất, cân bằng giữa tác động tiêu cực về sự sáng tạo và có phần tích cực về năng suất nên có sự kết nối trong vận hành kinh doanh, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng kinh doanh và thời kỳ kinh tế hỗn loạn.

Quá trình chuyển đổi này có xu hướng dẫn đến xã hội tri thức, kế thừa từ ý tưởng của Murphy (2005, [12]), cho rằng nghệ thuật và khoa học là cơ sở cho khái niệm “Chủ nghĩa tư bản Tri thức,” nơi vai trò của sự sáng tạo và trí thông minh là điều cần thiết để phương thức sản xuất được xây dựng dựa trên vốn hiểu biết. Các doanh nhân phải đóng một vai trò quan trọng, theo sau là những đóng góp đáng kể về đổi mới của họ, như là tinh thần khởi nghiệp. Stevenson và Jarillo (1990, [13]) nhấn mạnh khía cạnh quản lý của khởi nghiệp vượt ra ngoài ý nghĩa của mạo hiểm kinh doanh. Một cách tự nhiên, nó cho thấy sự tăng trưởng thông qua sáng tạo, cả về phát minh công nghệ và quản lý. Việc theo đuổi một cơ hội mới cho sự tăng trưởng được thực hiện thông qua hình thức công ty hay không không quan trọng, vấn đề là ở cốt lõi của doanh nghiệp.
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Starting a business is a useful tool to help unleash the creative activities from the rigid infrastructural system was too grow, in the same way capitalism has to do with feudalism. Through the effort of starting a business, business can stimulate change the basics of invention and innovation, and destabilize the form and content of the existing economic system, pushing it into a more radical change. Moreover, the efforts of business, starting a business can only operate effectively in an environment exists in market mechanisms and pricing system to help coordinate economic activities according to the market participants can achieve a higher interest costs. When this happens, the future entrepreneurs should join the business born of profit. Competition will also push enterprises losses (lack of efficiency, lack of capacity) out of the market. The takeover of resources and profit in this market often shows start-up pressure caused by the disproportionate rewards and punishment any balance in the market system.Step into a new era, many scholars also shifted the focus to the relationship between creativity, innovation and entrepreneurship (for example, Brown, Davidsson & Wiklund .2001; Kaufmann, 2004; Shalley & Gilson, 2004; Miron, Erez & Naveh, 2004; McAdam & Keogh, 2004). Brown, Davidsson and Wiklund (2001, [4]) stressed the need to have strategies that can test by experimental methods to further develop that career management ", is defined as a set of management measures based on chance, can help businesses retain an essential role and contribution to the process of creating value in the enterprise level and society. "The changes due to early career brings not only lạiở the effects of starting a business and adventure cycle, but also spreading the community well established businesses, including multinational companies. Ahuja and Lampert (2001, [5]) addressed the important issues and practical about how the company has established are able to create breakthrough innovations, by relying on the notion of ' start-up businesses '. It is the company that has successfully reset the start-up spirit, thereby strengthening creativity.The difference in the history of culture plays an important role in determining deviation of progress and prosperity between the East and the West. If Birzner (1999, [6]) talking about the spirit of starting a business association with the value systems of both the society and the American Government, then Worris and Leung (2010, [7]) indicate differences in creativity between the East and West still exist, and these differences can be considered based on the differences in culture and social pressure is more based on the novelty strange/unique/usefulness or suitability.Social norm and actual context also helps to predict the differences in culture. Look back periods of domination from the late 19th century in East Asian countries (such as China, Vietnam and South Korea), the low ratings of the business classes in society have shown differences, hinder the determination and innovation, even as both the adaptation of the existing. This exciting transition then taking place, East Asian economies such as Japan, have benefited from the changing ideology of world elite when it realized the value of starting his own business and try to institutionalize civil society-where innovation and creative activities are favored (Isaksen & Ekvall, 2010, [8]).At the social level, Bohm (1968, [9]) begs the question about what prevents most people in a country to go to the creator: "The mind's creative abilities are generally not work" is a result of popular confusion between ' the creation ' and ' open air '-which was very persistent suspicions can hardly be aware of the lack of a creative person. Awaken the power of business requires the performance of the innovative entrepreneurs.Innovation at the private start-up companies in China and Vietnam only occurs in the proper environment, where private property is recognized in full and the market exists to allow real competition (McMillan and Woodruff, 2002, [10]) back in the early days of private enterprise during the period of economic reform in Vietnam, right in the period 1988-1992 crisis-the private sector, then to the small scale business enterprises, have increased by 6.4 million jobs to the economy (up from 3.8 million to 10.2 million), while the public sector dropped 1.1 million jobs (from 4.1 million to 3.0 million), regional cooperation and governance reduced 2.1 million jobs (from 20.7 million while 18.6 million). In the next period 1992-1995, 2.4 million jobs continue to be created by the SMES, Vietnam.Regarding the precarious calculation of job, Probst et al. (2007, [11]) look at productivity, factors that hamper productivity and creativity to the conclusion that, as of precarious work can hamper the creativity of employees. However, the instability of the job may have some effects of moderate gains in productivity, the balance between the negative impact on creativity and positive part in productivity should have the connections in business operation, especially during periods of business growth and turbulent economic period.This conversion process tends to lead to the knowledge society, inherited from the idea of Murphy (2005, [12]), that art and science are the basis for the concept of "knowledge capitalism," where the role of creativity and intelligence are essential to production methods based on learning. The entrepreneurs have played an important role, followed by substantial contributions in terms of their innovation, as the start-up spirit. Stevenson & Jarillo (1990, [13]) emphasise aspects of business management beyond the meaning of the business venture. Naturally, it showed growth through innovation, both technological and managerial innovations. The pursuit of a new opportunity for growth to be made through the corporate form or not does not matter, the issue is at the core of the business.
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Anh) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Khởi nghiệp là một công cụ hữu ích giúp giải phóng các hoạt động sáng tạo từ sự cứng nhắc của hệ thống hạ tầng đã quá phát triển, theo cùng cách chủ nghĩa tư bản đã làm với chế độ phong kiến. Thông qua các nỗ lực khởi nghiệp, doanh nghiệp có thể kích thích sự thay đổi căn bản về phát minh và đổi mới, và đồng thời làm mất ổn định các hình thức và nội dung của một hệ thống kinh tế hiện có, đẩy nó vào một biến đổi triệt để hơn. Hơn nữa, những nỗ lực kinh doanh/khởi nghiệp chỉ có thể hoạt động hiệu quả trong một môi trường tồn tại cơ chế thị trường và hệ thống giá cả giúp điều phối các hoạt động kinh tế theo cách người tham gia thị trường có thể đạt được lợi ích thương mại cao hơn chi phí bỏ ra. Khi điều này xảy ra, các doanh nhân tương lai nên tham gia vào công việc kinh doanh sinh lợi nhuận. Cạnh tranh cũng sẽ đẩy các doanh nghiệp thua lỗ (thiếu hiệu quả, thiếu năng lực) ra khỏi thị trường. Việc tiếp quản các nguồn lực và lợi nhuận trong trò chơi thị trường thường cho thấy áp lực khởi nghiệp gây ra bởi những phần thưởng không cân xứng và cả sự trừng phạt bất cân xứng trong hệ thống thị trường.

Bước sang kỷ nguyên mới, nhiều học giả cũng chuyển trọng tâm sang mối liên hệ tự nhiên giữa sáng tạo/đổi mới và khởi nghiệp (ví dụ, Brown, Davidsson & Wiklund,2001; Kaufmann, 2004; Gilson & Shalley, 2004; Miron, Erez & Naveh, 2004; McAdam & Keogh, 2004). Brown, Davidsson và Wiklund (2001, [4]) nhấn mạnh sự cần thiết phải có các chiến lược có thể kiểm định bằng phương pháp thực nghiệm để tiếp tục phát triển giả thiết rằng “quản lý khởi nghiệp, được định nghĩa là một tập hợp các biện pháp quản lý dựa trên cơ hội, có thể giúp các doanh nghiệp giữ nguyên vai trò thiết yếu và đóng góp cho quá trình tạo ra giá trị ở cấp độ doanh nghiệp và xã hội.”

Những thay đổi do khởi nghiệp đem lại không chỉ dừng lạiở những ảnh hưởng trong khởi nghiệp và chu kỳ mạo hiểm, mà còn lan rộng ra cộng đồng các doanh nghiệp thành lập tốt, bao gồm cả công ty đa quốc gia. Ahuja và Lampert (2001, [5]) giải quyết các vấn đề quan trọng và thiết thực về việc làm thế nào các công ty đã thành lập có thể tạo ra đột phá về đổi mới, bằng cách dựa vào khái niệm ‘doanh nghiệp khởi nghiệp’. Đó là các công ty đã thành công thiết lập lại tinh thần khởi nghiệp, qua đó nâng cao năng lực sáng tạo.

Sự khác biệt trong lịch sử văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc xác định độ lệch của sự tiến bộ và thịnh vượng giữa phương Đông và phương Tây. Nếu Birzner (1999, [6]) nói về tinh thần khởi nghiệp gắn với giá trị hệ thống của cả xã hội và chính phủ Mỹ, thì Worris và Leung (2010, [7]) lại chỉ ra những khác biệt về sự sáng tạo giữa phương Đông và phương Tây vẫn còn tồn tại và những khác biệt này có thể được xem xét dựa trên sự khác biệt về văn hóa và áp lực xã hội nhiều hơn là dựa vào tính mới lạ/độc đáo hoặc tính hữu dụng/phù hợp.

Chuẩn mực xã hội và bối cảnh thực tế cũng giúp dự đoán sự khác biệt về văn hóa. Nhìn lại thời kỳ đô hộ từ cuối thế kỷ 19 ở các nước Đông Á (như Trung Quốc, Việt Nam và Hàn Quốc), xếp hạng thấp của các tầng lớp kinh doanh trong xã hội đã cho thấy sự khác biệt, cản trở quyết tâm khởi nghiệp và đổi mới, thậm chí là cả sự thích ứng của các đổi mới hiện có. Quá trình chuyển đổi sôi động sau đó diễn ra kinh tế Đông Á, như Nhật Bản, có lợi từ sự thay đổi ý thức hệ của giới elite khi nhận ra giá trị của khởi nghiệp và cố gắng thể chế hóa xã hội dân sự – nơi đổi mới và hoạt động sáng tạo được ưa chuộng (Isaksen và Ekvall, 2010, [8]).

Ở cấp độ xã hội, Bohm (1968, [9]) đặt ra câu hỏi về điều gì ngăn cản phần lớn người dân ở một đất nước đi đến sáng tạo: “Các khả năng sáng tạo của trí óc nói chung là không hoạt động” là kết quả của sự nhầm lẫn phổ biến giữa ‘các sáng tạo’ và ’máy móc’ – vốn rất dai dẳng khiến người ta khó có thể nhận thức được sự thiếu sáng tạo của một người. Thức tỉnh quyền lực kinh doanh đòi hỏi hiệu suất sáng tạo của các doanh nhân.

Đổi mới tại các công ty khởi nghiệp tư nhân trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam chỉ xảy ra trong môi trường thích hợp, nơi sở hữu tài sản tư nhân được công nhận đầy đủ và thị trường tồn tại cho phép cạnh tranh thực sự (McMillan và Woodruff, 2002, [10]) Quay trở lại những ngày đầu của doanh nghiệp tư nhân trong thời kỳ đổi mới kinh tế ở Việt Nam, ngay trong giai đoạn khủng hoảng 1988-1992 – khu vực tư nhân, sau đó đến các doanh nghiệp kinh doanh quy mô nhỏ, đã tăng thêm 6,4 triệu việc làm cho nền kinh tế (tăng từ 3,8 triệu lên 10,2 triệu), trong khi khu vực nhà nước giảm 1,1 triệu việc làm (từ 4,1 triệu xuống còn 3,0 triệu), và khu vực hợp tác quản lý nhà nước giảm 2,1 triệu việc làm (từ 20,7 triệu còn 18,6 triệu). Trong giai đoạn tiếp theo 1992-1995, 2,4 triệu việc làm tiếp tục được tạo ra bởi các DNNVV Việt Nam.

Liên quan đến tính bấp bênh của công việc, Probst et al. (2007, [11]) nhìn vào năng suất, các yếu tố cản trở năng suất và sự sáng tạo để kết luận rằng, tính bấp bênh trong công việc có thể cản trở khả năng sáng tạo của nhân viên. Tuy nhiên,sự bất ổn trong công việc có thể có một số tác động lợi ích vừa phải về năng suất, cân bằng giữa tác động tiêu cực về sự sáng tạo và có phần tích cực về năng suất nên có sự kết nối trong vận hành kinh doanh, đặc biệt là trong giai đoạn tăng trưởng kinh doanh và thời kỳ kinh tế hỗn loạn.

Quá trình chuyển đổi này có xu hướng dẫn đến xã hội tri thức, kế thừa từ ý tưởng của Murphy (2005, [12]), cho rằng nghệ thuật và khoa học là cơ sở cho khái niệm “Chủ nghĩa tư bản Tri thức,” nơi vai trò của sự sáng tạo và trí thông minh là điều cần thiết để phương thức sản xuất được xây dựng dựa trên vốn hiểu biết. Các doanh nhân phải đóng một vai trò quan trọng, theo sau là những đóng góp đáng kể về đổi mới của họ, như là tinh thần khởi nghiệp. Stevenson và Jarillo (1990, [13]) nhấn mạnh khía cạnh quản lý của khởi nghiệp vượt ra ngoài ý nghĩa của mạo hiểm kinh doanh. Một cách tự nhiên, nó cho thấy sự tăng trưởng thông qua sáng tạo, cả về phát minh công nghệ và quản lý. Việc theo đuổi một cơ hội mới cho sự tăng trưởng được thực hiện thông qua hình thức công ty hay không không quan trọng, vấn đề là ở cốt lõi của doanh nghiệp.
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: