Full reception and use of information from the database system of the Department of customs administration directly.Based on the process of the current customs procedures, combined with the other resources of the Bureau to select and decide the customs inspection.Report of the Bureau of customs to manage directly the whole time situation management, use and the problems arising in the course of operating the compliance management system.In collaboration with agencies, local units managed to collect information management compliance service according to hierarchy.2.4 compliance management practices in customs procedures for goods export, importNot when there are customs law customs 2063 to make the assessment of compliance in its management. The customs authority before performing the analysis reviews key projects, key items or to check key enterprises, monitoring has been implementing compliance management. However the implementation of this method at that time not yet into the principles, not according to a system should had limited effects. After the customs law in 2015 as well as the legal text functions, duties of customs and powers of responsibility was implemented measures for customs supervision, inspection of the customs officer, the leader of the customs of the levels based on the recognition of the risks incurred in the operation of customs , the customs authority has stipulated the basic principles about manage compliance, which has distinguished the different compliance levels and the ways of handling different compliance. Such classification form reality check goods include: free check, check the probability of not more than 10%, the whole reality check.Như vậy, từ năm 2005 ngành Hải quan đã bước đầu áp dụng nguyên tắc quản lý tuân thủ nhưng với mức độ đơn giản.Tuy nhiên, việc thực hiện vẫn dựa trên nguồn thông tin hạn chế, cục bộ, dựa rất lớn vào ý chí chủ quan của người trực tiếp thực hiện như chi cục trưởng chi cục Hải quan cửa khẩu, công chức kiểm tra hồ sơ, trong khi sự hỗ trợ của hệ thống thông tin quản lý còn hạn chế, trong khi đó trách nhiệm của các công chức này trước pháp luật là rất lớn nên thực tế lượng hàng hóa XNK phải kiểm tra hầu như không giảm đáng kể. Do những quy định của Luật Hải quan 2005 còn một số hạn chế, chưa đáp ứng các chuẩn mực quốc tế về quản lý tuân thủ và tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại đầu tư nên quá trình triển khai QLTT trong thực tế còn phân tán, chưa đồng bộ. Sau khi có Quy chế áp dụng QLTT trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK thương mại, việc QLTT đối với hàng hóa XNK đã thống nhất dựa trên sự đánh giá tuân thủ về vi phạm các quy định về khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, hồ sơ, chứng từ khai hải quan, trị giá hàng, phân loại hàng hóa, hàng hóa thuộc diện quản lý theo giấy phép, hạn ngạch và quản lý chuyên ngành... Tổng cục Hải quan đã xây dựng được bộ tiêu chí QLTT phục vụ phân luồng tự động dựa trên cơ sở phân các tiêu chí thành hai loại gồm các tiêu chí ưu tiên, các tiêu chí đánh giá tuân thủ. Tổng cục Hải quan đã sử dụng hệ thống phân tích, đánh giá tuân thủ để hỗ trợ phân luồng, lựa chọn đối tượng kiểm tra trên cơ sở hồ sơ tuân thủ được cập nhật trong toàn hệ thống. Đến nay đã thiết lập bộ tiêu chí quản lý tuân thủ, trong đó mức độ tuân thủ của từng tiêu chí được cho điểm dựa trên thực tế hoạt động của ngành, trên cơ sở đó phân tích các tuân thủ sao cho khi chủ hàng đến làm thủ tục hải quan thì đã có những đánh giá về mức độ tuân thủ để áp dụng các biện pháp xử lý phù hợp.Tuy nhiên đối với giai đoạn đầu thực hiện Luật, khi chưa có đủ thông tin cho từng tiêu chí, chương trình xử lý và hạ tầng cơ sở chưa đảm bảo, việc áp dụng quản lý tuân thủ có thể thực hiện theo cách phân loại DN dựa trên các tiêu chí như: DN lớn, kinh doanh ổn định, thương hiệu lớn, DN ít có khả năng vi phạm và nếu có thì khả năng khắc phục; DN không lớn nhưng XNK thường xuyên và qua thời gian dài hoạt động ít có hành vi vi phạm nghiêm trọng; DN chuyên sản xuất, XK nông thủy hải sản… Việc áp dụng chế độ phân loại DN như trên phải đi kèm theo hệ thống kiểm tra sau thông quan hoạt động tốt, đồng thời có hệ thống thông tin tình báo tốt để kịp thời phát hiện các dấu hiệu lợi dụng chế độ ưu tiên để vi phạm pháp luật.Bộ phận phân tích rủi ro đã bước đầu tiến hành phân loại nguyên nhân rủi ro theo các định lượng bao nhiêu % tuân thủ do doanh nghiệp, bao nhiêu % tuân thủ do quy trình nghiệp vụ quản lý, bao nhiêu % tuân thủ do từ phía cán bộ, công chức trong ngành hải quan… Bộ phận đánh giá rủi đã bước đầu tổng hợp thông tin xử lý để đưa ra các thông tin cảnh báo về số lần vi phạm pháp luật của doanh nghiệp, quy mô và mức độ của các lần vi phạm; từ đó ước lượng thiệt hại có thể xảy ra cho từng loại rủi ro. Cơ quan hải quan đã xây dựng và phát triển hệ thống thu thập, xử lý dữ liệu điện tử nhằm phục vụ xác định, đánh giá tuân thủ trong hoạt động nghiệp vụ của ngành. Hệ thống này hoạt động thường xuyên, liên tục 24/24 giờ, 7 ngày/tuần; đảm bảo an ninh, an toàn dữ liệu. Trên cơ sở hệ thống thông tin đã hình thành nhân viên hải quan dựa trên kết quả thu thập, phân tích, đánh giá thông tin về: Tổ chức, cá nhân xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hàng hóa, xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh phương tiện vận tải; các tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài là đối tác hoặc liên quan đến hoạt động này; hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh; xuất xứ hàng hóa nhập khẩu; nơi xuất/nhập khẩu hàng hoặc địa điểm trung chuyển hàng đến/từ Việt Nam; chính sách quản lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu; chính sách ưu đãi về xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa, về hạn ngạch thuế quan Việt Nam hoặc giữa Việt Nam với các quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc khu vực trên thế giới; quy trình thủ tục hải quan và các hoạt động liên quan đến hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh, phương tiện vận tải xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh; trị giá hải quan; phân loại hàng; thanh toán; phương thức vận chuyển để quyết định hình thức kiểm tra hải quan cụ thể.Các đơn vị trực thuộc Bộ Tài chính, các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân liên quan bước đầu có trách nhiệm phối hợp, trao đổi, chuyển giao thông tin phục vụ áp dụng quản lý tuân thủ trong quản lý nhà nước về hải quan nhưng chất lượng thông tin chưa cao.Tổng cục Hải quan đã chỉ đạo các đơn vị nghiên cứu, đề xuất mô hình và phương án triển khai quản lý tuân thủ. Việc phân định mức độ tuân thủ của các doanh nghiệp để xác định hình thức kiểm tra hợp lý đã được vận dụng phổ biến ở các cơ quan kiểm soát hải quan. Ngành hải quan đã xây dựng bước đầu cơ sở dữ liệu doanh nghiệp phục vụ việc lựa chọn doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan để xác định những nội dung ưu tiên khi làm thủ tục hải quan; lựa chọn doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật hải quan để chỉ kiểm tra sơ bộ hồ sơ hải quan; quy định tiêu chí rủi ro để xác định lô hàng cần kiểm tra; sử dụng hệ thống máy tính để xác định lô hàng cần kiểm tra ngẫu nhiên; xác định đối tượng được ân hạn thuế; đánh giá phân tích phân loại thông tin để xác định đối tượng và lập kế hoạch kiểm tra sau thông quan…
Trên cơ sở thu thập, phân tích thông tin, đánh giá tuân thủ trước, trong và sau thông quan theo tiêu chí theo từng thời kỳ, phù hợp với quy định của pháp luật về hải quan, cơ quan hải quan miễn kiểm tra cho các đối tượng không nằm trong trường hợp sau:
Không tuân thủ pháp luật hải quan;
Có dấu hiệu vi phạm pháp luật hải quan;
Kết quả phân tích, đánh giá xác định mức độ rủi ro cao;
Lựa chọn ngẫu nhiên.
3,Kết quả đạt được
Thành tích đầu tiên của triển khai QLTT trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK là cải cách thủ tục hải quan ở nước ta hướng tới các chuẩn mực quốc tế. Từ chỗ chỉ phân luồng hàng hóa một cách chủ quan, dựa chủ yếu vào kinh nghiệm của cán bộ hải quan, với tỷ lệ hàng hóa ở luồng xanh khá thấp, tỷ lệ kiểm tra thực tế khá cao, từ năm 2015 các chi cục hải quan đã tiến hành phân luồng hàng hóa một cách bài bản, dựa ngày càng nhiều hơn vào các tiêu chí tuân thủ và dữ liệu thông tin. Số lượng hàng hóa phân vào luồng xanh ngày càng tăng lên.
Thành công nổi bật thứ hai của việc áp dụng QLTT vào quy trình thủ tục hải quan là tăng hiệu suất công việc của cơ quan hải quan. Mặc dù khối lượng công việc không ngừng tăng lên, ngành hải quan phải thực hiện nhiều việc cùng một lúc theo các cam kết quốc tế, nhưng nhờ cải cách thủ tục hải quan nói chung, QLTT nói riêng, hiệu suất công việc tăng lên đáng kể.
đang được dịch, vui lòng đợi..