II-development practices To agricultural and rural credit in VietnamTheo các số liệu chưa đầy đủ, ước đến tháng 6/2008, dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo&PTNT) và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân, cộng với vốn của Ngân hàng Chính sách Xã hội cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách đạt khoảng 181.500 tỷ đồng, chiếm khoảng 17% tổng dư nợ cho vay các thành phần kinh tế của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Khu vực nông thôn TP Hà Nội (trước ngày 1/8/2008) có khoảng 1,2 triệu dân sinh sống, chiếm 35% tổng số dân TP Hà Nội, nhưng khu vực này chỉ chiếm 2,6% tổng dư nợ của các tổ chức tín dụng trên địa bàn. Nhìn chung, khu vực nông nghiệp, nông thôn Việt Nam chiếm hơn 70% dân số và hơn 72% lực lượng lao động, nhưng đến nay cũng mới chỉ chiếm dưới 25% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của hệ thống tổ chức tín dụng. Dư nợ cho vay tập trung chủ yếu tại khu vực Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, chiếm khoảng 49% tổng dư nợ cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Phần còn lại tập trung cho khu vực duyên hải miền Trung, chiếm khoảng 14,43%, đồng bằng Bắc Bộ 17,21%, miền núi phía Bắc 9,86%, Tây Nguyên 9,4%. Một thống kê khác của Trung tâm Thông tin tín dụng (Ngân hàng Nhà nước) cũng cho thấy, tính đến tháng 6/2008, cơ cấu tín dụng dành cho Tp.HCM và Hà Nội chiếm 54%/tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống ngân hàng. So với khu vực duyên hải miền Trung: 7%, Bắc Trung Bộ: 4%, Đông Bắc Bộ: 4%, Tây Nguyên: 3% và Tây Bắc: 1% thì phần lớn thị phần dư nợ đều dành cho thành phố, còn dư nợ cho vùng nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là miền núi chiếm tỷ lệ rất thấp. Trong 5 năm (2003 - 2007), Việt Nam đầu tư cho phát triển nông nghiệp chỉ đạt 113 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn đầu tư Nhà nước và mới chỉ đáp ứng 17% nhu cầu của khu vực này. Bảo hộ nông nghiệp mới chỉ ở mức 4% (260 triệu USD) trong khi cam kết với WTO là 10% (650 triệu USD) so với giá trị sản lượng nông nghiệp. Đầu tư cho khuyến nông chỉ là 0,13% GDP (trong khi các nước khác tỷ lệ này là 4%). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nông nghiệp, nông thôn mới chiếm 3% tổng nguồn FDI... Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng bình quân trong cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp nông thôn của 10 năm qua chỉ 22%/năm, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân chung của cho vay toàn bộ nền kinh tế là 25%/năm.Là khu vực sinh lời thấp, chi phí cao, nhiều rủi ro khách quan (thiên tai, dịch bệnh, khả năng trả nợ của khách hàng thấp...) nên luồng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn thương mại không đổ vào nhiều. Mặc dù hiện thị trường tài chính nông thôn Việt Nam đang được tiếp nhận nhiều nguồn vốn đầu tư đa dạng như: Vốn ngân sách nhà nước; vốn tín dụng nông nghiệp lãi suất ưu đãi đầu tư các dự án; vốn tín dụng lãi suất ưu đãi cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách... Tuy nhiên, các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tại khu vực nông thôn còn nghèo nàn, chủ yếu là tín dụng truyền thống, các dịch vụ thanh toán, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm tín dụng nông nghiệp còn rất hạn chế, gần như mới phát triển ở mức thử nghiệm, sản phẩm tín dụng của ngân hàng chưa bao gồm các dịch vụ hỗ trợ đi kèm, các công cụ đầu tư tài chính chuyên nghiệp cho thị trường này hầu như chưa có. Quy trình cung cấp tín dụng còn phức tạp, chưa phù hợp với trình độ của người dân, đặc biệt là các thủ tục liên quan đến tài sản thế chấp là đất đai; không đáp ứng kịp thời vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và lãi suất các khoản cho vay thương mại đối với nông nghiệp - nông thôn còn ở mức rất cao, khiến còn nhiều tệ nạn như cò vay vốn, tín dụng nặng lãi,... Hơn nữa, các nguồn tín dụng - đầu tư còn mất cân đối, khả năng huy động vốn tại chỗ chưa cao; sử dụng vốn tín dụng và đầu tư còn tình trạng bị động, bất hợp lý, dàn trải, chồng chéo, ban phát, chưa được phối hợp đồng bộ, có hiệu quả, nhiều chương trình, dự án kinh tế không được đầu tư đúng hướng, đúng tiến độ gây thất thoát tài sản... Thậm chí, đến nay chưa có một thống kê đầy đủ, chính xác nào về tổng nguồn vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp, thực trạng và nhu cầu vốn đầu tư cho từng địa bàn, từng đối tượng cụ thể trong nông nghiệp. Đây là một trong những lý do tại sao tình hình khu vực nông nghiệp Việt Nam chưa có những cải thiện mạnh mẽ cả về mức sống và trình độ kinh tế, mặc dầu trên 80% hộ nông dân tại tất cả các vùng, miền trong cả nước đã được tiếp cận vốn và các dịch vụ của NHNo&PTNT và trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam, nông nghiệp được coi là nền móng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, cũng như trong thời gian vừa qua, đồng thời Ngân hàng Nhà nước đã có quan tâm xây dựng các cơ chế chính sách phát triển tín dụng nông nghiệp, nông thôn, hỗ trợ nâng cao năng lực của các định chế tài chính, nhất là các định chế tài chính hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, kêu gọi các nguồn vốn nước ngoài cho vay trong lĩnh vực này...
đang được dịch, vui lòng đợi..
