To integrate successfully, to take advantage of the opportunities that this trend, there are several issues raised, including an issue of paramount importance is that we need to build a proactive strategy of integration, a strategy that can promote an effective way of resources and enhance the competitiveness of the economy , the competitiveness of enterprises and the competitiveness of goods and services. One of the factors that determine the status of the business and contribute significantly to the effectiveness of capacity major competition is the trademark issues.Theo định nghĩa của Hiệp hội Ma-ket-ting Hoa Kỳ, thương hiệu là cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng hay một kiểu dáng hoặc tổng hợp tất cả các yếu tố trên nhằm xác định các sản phẩm hay dịch vụ của một (hay một nhóm) người bán và phân biệt các sản phẩm (dịch vụ) đó với các đối thủ cạnh tranh. Thương hiệu là một thuật ngữ quen thuộc trong kinh doanh quốc tế. Ở Việt Nam, mặc dù các văn bản pháp luật chưa đề cập đến, nhưng nó vẫn được dùng phổ biến trong Ma-ket-ting và trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thương hiệu là một thuật ngữ phổ biến được sử dụng trong Ma-ket-ting để đề cập đến nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý (bao gồm tên gọi, xuất xứ và các chỉ dẫn cần thiết). Ở đây cần phân biệt thương hiệu với một số khái niệm khác như: nhãn hiệu, nhãn hiệu hàng hoá, tên thương hiệu, tên thương mại. Thương hiệu và nhãn hiệu nói chung về cơ bản là giống nhau vì đều có nguồn gốc từ từ "BRAND".(Luật sư tư vấn bảo hộ nhãn hiệu quyền tại Việt Nam - 1900 6162)Còn thương hiệu và nhãn hiệu hàng hoá có những điểm khác nhau: Thứ nhất, nếu thương hiệu là khái niệm chung, mang tính bản chất thì nhãn hiệu hàng hoá mang tính hình thức, cụ thể. Nhãn hiệu hàng hoá có thể dùng để chỉ một thương hiệu nào đó, nhưng thương hiệu không phải chỉ được thể hiện bằng nhãn hiệu hàng hoá. Thứ hai, thương hiệu được dùng cho cả doanh nghiệp, cả hàng hoá dịch vụ, còn nhãn hiệu hàng hoá chỉ dùng cho hàng hoá, dịch vụ. Thứ ba, thương hiệu có thể chỉ thuần tuý bằng một tên gọi và luôn gắn với tên gọi, còn nhãn hiệu lại có thể bao gồm tên gọi, biểu tượng. Về tên thương mại và tên thương hiệu: Tên thương mại, theo Nghị định 54/200/NĐ-CP, là tên của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động kinh doanh, có khả năng phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với các chủ thể kinh doanh khác trong cùng lĩnh vực kinh doanh. Còn tên thương hiệu là tên gọi của thương hiệu và thường được doanh nghiệp sử dụng để giới thiệu sản phẩm của mình. Tên thương hiệu là một trong ba yếu tố chính cấu thành thương hiệu: tên thương hiệu, lôgô và câu khẩu hiệu (slogan).
Thương hiệu đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với hàng hoá của doanh nghiệp, với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp mà còn đối với cả nền kinh tế quốc dân. Thương hiệu là tài sản vô hình vô cùng quý giá của doanh nghiệp, niềm tự hào của dân tộc, biểu tượng tiềm lực kinh tế của nền kinh tế quốc gia. Trong nhiều trường hợp, giá trị của thương hiệu là rất lớn trong giá trị chung của doanh nghiệp. Theo kết quả đánh giá của tờ Business Week – Tạp chí kinh tế nổi tiếng của Mỹ, phối hợp với hãng đánh giá thương hiệu Interbrand, công bố ngày 22-7-2005, về 100 tập đoàn lớn nhất và 100 thương hiệu hàng đầu thế giới, cho thấy giá trị các thương hiệu mạnh là rất lớn: Coca Cola có giá trị là 67,5 tỉ USD; Microsoft là 59,9 tỉ USD; IBM là 53,4 tỉ USD; General Eletric là 50 tỉ USD; Intel là 35,6 tỉ USD; Nokia là 26,5 tỉ USD; Desney là 26,4 tỉ USD; McDonals là 26 tỉ USD. Giá trị của các thương hiệu này chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng giá trị thị trường của công ty đó, chẳng hạn như giá trị của thương hiệu McDonals chiếm 75,19%, của thương hiệu Coca Cola là 53,67%. Cũng theo đánh giá của tạp chí này, thì bên cạnh giá trị cao, những thương hiệu mạnh nhất trên thế giới đã giúp các hãng bán được nhiều sản phẩm hơn so với các đối thủ cạnh tranh do có uy tín và chiếm được niềm tin của người tiêu dùng. Tác dụng của thương hiệu còn thể hiện ở chỗ, nó thiết lập chỗ đứng của doanh nghiệp, tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp, tạo điều kiện tiếp cận khách hàng và mở rộng thị trường; là dấu hiệu thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp với khách hàng, góp phần nâng cao giá trị của sản phẩm và giá trị doanh nghiệp. Trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới, thương hiệu ngày càng có ý nghĩa và giá trị to lớn do khách hàng ngày càng đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm, về trách nhiệm của doanh nghiệp. Mặt khác, khi mua hàng hoá, dịch vụ mang thương hiệu có uy tín, khách hàng có thể xác định được nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm nên tạo được tâm lý yên tâm, tin cậy và có thể đòi hỏi trách nhiệm của người cung cấp, giảm chi phí do tránh được việc sử dụng sản phẩm chất lượng kém.
Như vậy, thương hiệu về bản chất là uy tín, danh tiếng của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ hoặc của doanh nghiệp mà khách hàng nhận biết, nhớ đến thông qua nhãn hiệu hàng hoá và những yếu tố ẩn chứa bên trong nhãn hiệu đó. Rõ ràng, thương hiệu là một tài sản vô hình của doanh nghiệp, nó là tổng hợp của nhiều yếu tố, những thành quả mà doanh nghiệp đã tạo dựng được trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của mình. Sự nổi tiếng của thương hiệu là một lợi thế trong kinh doanh và là một bảo đảm cho lợi nhuận tiềm năng của doanh nghiệp. Vì thế, xây dựng và phát triển thương hiệu là một vấn đề hết sức cần thiết đối với mọi doanh nghiệp để có thể cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài, nhất là trong điều kiện chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Thời gian qua, nhìn chung các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa nhận thức được đầy đủ về tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề thương hiệu và vai trò của nó đối với bản thân sự phát triển của mình. Quan niệm về thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn vẫn xuất phát từ mục tiêu ngắn hạn, lợi ích trước mắt, dưới sức ép của doanh số, thiếu tầm nhìn dài hạn và thậm chí còn mang tính cảm tính. Trên thực tế , nhiều doanh nghiệp không nhận thức rõ sự cần thiết tạo dựng và phát triển thương hiệu nên đã không có chiến lược thương hiệu một cách rõ ràng, vì vậy lãng phí nhiều thời gian và có thể bỏ mất nhiều cơ hội thuận lợi. Qua nhiều điều tra và khảo sát, số doanh nghiệp hiểu biết về thương hiệu, nhãn hiệu vẫn còn rất hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chưa thấy hết giá trị của thương hiệu khi chuyển nhượng. Khi Tập đoàn Elida mua lại thương hiệu P/S với giá lên đến 5 triệu USD (trong khi đó toàn bộ tài sản cố định và lưu động chỉ có trên 1 triệu USD), thì nhiều doanh nghiệp không khỏi bất ngờ về giá trị của thương hiệu mạnh, có uy tín là rất lớn và thật khó dự tính.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng kinh phí dành cho hoạt động này vẫn còn khiêm tốn. Các doanh nghiệp chưa thật sự chú trọng đầu tư, xây dựng và phát triển thương hiệu và tên thương hiệu mạnh. Nhiều doanh nghiệp chưa coi trọng việc nghiên cứu thị trường và khách hàng, tham gia các hội chợ, tổ chức thăm dò trực tiếp với khách hàng còn hạn chế. Theo kết quả khảo sát với 500 doanh nghiệp do Báo Sài Gòn tiếp thị và Câu lạc bộ doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao tiến hành vào tháng 9/2002 thì: 50% các doanh nghiệp được hỏi chỉ chi phí dưới 5% tổng doanh số cho thương hiệu, gần 80% số doanh nghiệp được hỏi không hề bố trí nhân sự cho việc tiếp thị và phát triển thương hiệu. Chỉ có 4,2% doanh nghiệp cho rằng thương hiệu có ảnh hưởng đến khả năng canh tranh của doanh nghiệp và 5,4% cho rằng thương hiệu là tài sản doanh nghiệp và chi cho tạo dựng thương hiệu là chi đầu tư.
Trong hoạch định chiến lược tạo thương hiệu, nhiều doanh nghiệp chỉ chú ý thị trường xuất khẩu mà coi nhẹ thị trường nội địa. Tên thương hiệu còn ôm đồm, hướng đến quá nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, nhiều tên thương hiệu còn quá dài, khó đọc, khó nhớ và thậm chí không có nghĩa nên không tạo được ấn tượng với người tiêu dùng. Thương hiệu và tên thương hiệu chưa đọng lại trong tâm trí khách hàng trong và ngoài nước. Theo kết quả khảo sát hơn 600 doanh nghiệp khách hàng nước ngoài của Việt Nam do Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Thương mại mới đây cho thấy, ấn tượng của người nước ngoài về hình ảnh biểu trưng cho sản phẩm hàng hoá của Việt Nam rất mờ nhạt. Phần lớn các doanh nghiệp nước ngoài khi được phỏng vấn đều cho biết họ không có ấn tượng gì nhiều đối với các thương hiệu sản phẩm của Việt Nam. Một số tên tuổi lớn trong nền kinh tế, được nhiều người Việt Nam ghi nhớ, chỉ xuất hiện trong con mắt của người nước ngoài với tần suất thấp một cách đáng lo ngại: Dệt Thái Tuấn: 1 lần, May 10: 1 lần, Vietnam Airlines: 1 lần, Trung Nguyên: 4 lần (Theo VnEpress cập nhật ngày 17-2-2005). Do vậy, cùng một chất lượng hàng hoá như nhau, nếu mang nhãn hiệu của nước ngoài
đang được dịch, vui lòng đợi..
