Tuy nhiên, theo tôi, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh dịch - Tuy nhiên, theo tôi, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh Anh làm thế nào để nói

Tuy nhiên, theo tôi, mặc dù hệ thốn

Tuy nhiên, theo tôi, mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính đang diễn ra nhưng không phải là không có vấn đề. Những vấn đề mà hệ thống ngân hàng gặp phải chủ yếu phát sinh từ những yếu tố nội tại.
Trước hết, là vấn đề mô hình của hệ thống ngân hàng. Theo Khoản 2, Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng được Quốc hội ban hành năm 1997 và được sửa đổi, bổ sung năm 2004 thì các loại hình ngân hàng ở Việt Nam bao gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác. Nhưng dưới gốc độ lập pháp thì cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng về chức năng của từng loại ngân hàng. Đặc biệt, chưa có một văn bản pháp quy nào được ban hành để điều chỉnh hoạt động của ngân hàng phát triển và NHĐT – là những hoạt động kinh doanh ngân hàng có rủi ro cao nhất. Chính sự mập mờ này đã tạo điều kiện cho các NHTM, các CTTC “lấn sân”. Và trên thực tế, nhiều NHTM và các CTTC đã “không ngần ngại” đầu tư vào bất động sản và chứng khoán đã mang lại không ít hệ lụy cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào việc đẩy nền kinh tế đi đến lạm phát thời gian qua.
Tiếp theo, là sự ra đời ồ ạt của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, đặc biệt là các CTTC. Cho đến thời điểm hiện tại, chúng ta đã có trên 80 ngân hàng thương mại[6] và trên 20 công ty tài chính. Phần lớn các CTTC đều có nguồn góc vốn góp từ các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước lớn. Với vai trò tạo vốn và điều hoà vốn giữa các thành viên trong tập đoàn, tổng công ty, cho nên CTTC dễ dàng bỏ qua những chuẩn mực cần thiết của hoạt động tín dụng trong việc tài trợ vốn cho các thành viên, các dự án của tập đoàn và tổng công ty. Điều này không những làm cho rủi ro tín dụng tăng lên mà còn làm tăng nguy cơ “hiệu ứng dây chuyền” khi thị trường tiền tệ hoặc lĩnh vực kinh doanh chính của tập đoàn, tổng công ty có biến động mạnh[7]. Việc có quá nhiều ngân hàng (trong đó, có khoản 25% ngân hàng có hiệu quả kinh doanh hạn chế) và các CTTC sẽ dẫn đến hai nguy cơ lớn là khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh ổn định và khả năng quản trị ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn khó khăn hiện nay.
Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng gia tăng do tăng trưởng tín dụng khá cao cũng đặt hệ thống ngân hàng trước những thách thức không nhỏ. Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tổng dư nợ tín dụng cho vay kinh doanh bất động sản hiện nay khoảng 115.500 tỷ đồng, chiếm 9,15% trên tổng dư nợ toàn hệ thống. Riêng năm 2007, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2007 là 53% – một con số khá cao cộng với khoảng 50% các khoảng dư nợ được thế chấp bằng bất động sản sẽ làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong những tháng cuối năm 2008 khi các khoản cho vay vào bất động sản trước đây lúc thị trường này còn hấp dẫn sẽ đáo hạn. Trong tình hình TTBĐS vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc thì việc các ngân hàng phải đối diện với khoản lỗ lớn là khó tránh khỏi. Tại Đại hội đồng cổ đông bất thường của Ngân hàng Eximbank đã công bố nợ quá hạn của ngân hàng này là 1.361 tỷ đồng, chiếm 6,09% tổng dư nợ, trong đó nợ xấu là 619 tỷ đồng và khoản nợ có khả năng bị mất là 200 tỷ đồng. Theo lãnh đạo Eximbank, nợ xấu của ngân hàng này chủ yếu là các khoản cho vay bất động sản. Hiện nay, dư nợ cho vay bất động sản của Eximbank là 4.000 tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng dư nợ của ngân hàng[8].
Ngoài ra, nguy cơ về tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn đang còn tiềm ẩn, mặc dù các giải pháp thắt chặt tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, kìm chế lạm phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng. Lãi suất cơ bản qua bốn đợt cắt giảm trong một thời gian ngắn đã được hạ xuống còn 10%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được giảm xuống đáng kể đi kèm theo việc tăng lãi suất trên tỷ lệ này, lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng và chiết khấu giấy tờ có cũng giảm khá mạnh. Song song đó, NHNN đã mua lại tín phiếu bắt buộc phát hành cho các ngân hàng trước thời gian đáo hạn trị giá 20,3 ngàn tỷ đồng. Những động thái trên là dấu hiệu “nới lỏng chính sách tiền tệ” một cách linh hoạt của Chính phủ nhằm tăng tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện để ngân hàng hạ lãi suất cho vay để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn. Qua đó, kích thích sản xuất chống lại nguy cơ giảm phát và duy trì mức tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng khi, lượng tiền mặt trong hệ thống tăng lên và các ngân hàng đã giảm đáng kể lãi suất cho vay tương đương với mức cuối năm 2007 thì các doanh nghiệp lại tỏ ra không mấy mặn mà. Nguyên nhân chủ yếu được xác định là do ảnh hưởng của đợt lạm phát trong nước vừa qua và của cuộc khủng khoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra đã làm sức mua trong nước và trên thị trường các nước vốn là nơi tiêu thụ truyền thống sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam giảm mạnh. Như vậy, hệ thống ngân hàng Việt Nam lại đối diện với một thách thức mới. Đó là tìm đầu ra cho những đồng vốn của mình. Trong điều kiện TTBĐS “đóng băng” và TTCK li
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
However, in my opinion, although Vietnam banking system not influenced directly from the ongoing financial crisis, but not without problems. The problem that the banking system encountered mainly arise from the intrinsic factor.First of all, the problem is the model of the banking system. According to clause 2, article 20 of the law on credit institutions is Congress enacted in 1997 and amended and supplemented in 2004, then the type of Bank in Vietnam including: commercial banks, development banks, investment banks, policy banks, cooperative banks and other banks. But under the legislature so far, we still have no clear distinction of functions of each type of Bank. In particular, does not yet have a law would be enacted to regulate the activity of development banks and NHĐT-are those of business activities the Bank has the highest risk. The main shark blur has created conditions for the URBAN COMMERCIAL, the SHIP BUILDING "pitch encroachment". And in fact, many of the URBAN COMMERCIAL and SHIP BUILDING was "not hesitate" to invest in real estate and securities brought back not a few implications for the economy, contributed to promoting the economy go to inflation over time.Next, is the massively of banks and non-bank credit organization, especially the SHIP BUILDING. Until the present time, we have had over 80 commercial banks [6] and on 20 finance companies. The majority of SHIP BUILDING are the source of capital from the angle of economic Corporation, the large State corporations. With the create role of capital and regulate capital between the members of the Corporation, the Corporation, so the SHIP BUILDING easy to ignore the standards required of credit operations in the capital for the project, members of the Group and of the company. This not only makes the increased credit risk but also increases the risk of "effects chains" when currency markets or the main business areas of the Corporation, the Corporation has strong fluctuations [7]. Having too many banks (of which there are 25% of bank accounts effectively limited business) and the SHIP BUILDING will lead to two major risk is the possibility of raising capital to maintain stable business and banking management capabilities, particularly in the current difficult period.Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ xấu đang có xu hướng gia tăng do tăng trưởng tín dụng khá cao cũng đặt hệ thống ngân hàng trước những thách thức không nhỏ. Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tổng dư nợ tín dụng cho vay kinh doanh bất động sản hiện nay khoảng 115.500 tỷ đồng, chiếm 9,15% trên tổng dư nợ toàn hệ thống. Riêng năm 2007, tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng Việt Nam năm 2007 là 53% – một con số khá cao cộng với khoảng 50% các khoảng dư nợ được thế chấp bằng bất động sản sẽ làm tăng tỷ lệ nợ xấu trong những tháng cuối năm 2008 khi các khoản cho vay vào bất động sản trước đây lúc thị trường này còn hấp dẫn sẽ đáo hạn. Trong tình hình TTBĐS vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc thì việc các ngân hàng phải đối diện với khoản lỗ lớn là khó tránh khỏi. Tại Đại hội đồng cổ đông bất thường của Ngân hàng Eximbank đã công bố nợ quá hạn của ngân hàng này là 1.361 tỷ đồng, chiếm 6,09% tổng dư nợ, trong đó nợ xấu là 619 tỷ đồng và khoản nợ có khả năng bị mất là 200 tỷ đồng. Theo lãnh đạo Eximbank, nợ xấu của ngân hàng này chủ yếu là các khoản cho vay bất động sản. Hiện nay, dư nợ cho vay bất động sản của Eximbank là 4.000 tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng dư nợ của ngân hàng[8].Ngoài ra, nguy cơ về tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng vẫn đang còn tiềm ẩn, mặc dù các giải pháp thắt chặt tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, kìm chế lạm phát của Chính phủ đã phát huy tác dụng. Lãi suất cơ bản qua bốn đợt cắt giảm trong một thời gian ngắn đã được hạ xuống còn 10%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được giảm xuống đáng kể đi kèm theo việc tăng lãi suất trên tỷ lệ này, lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng và chiết khấu giấy tờ có cũng giảm khá mạnh. Song song đó, NHNN đã mua lại tín phiếu bắt buộc phát hành cho các ngân hàng trước thời gian đáo hạn trị giá 20,3 ngàn tỷ đồng. Những động thái trên là dấu hiệu “nới lỏng chính sách tiền tệ” một cách linh hoạt của Chính phủ nhằm tăng tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện để ngân hàng hạ lãi suất cho vay để các doanh nghiệp có thể tiếp cận nguồn vốn. Qua đó, kích thích sản xuất chống lại nguy cơ giảm phát và duy trì mức tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng khi, lượng tiền mặt trong hệ thống tăng lên và các ngân hàng đã giảm đáng kể lãi suất cho vay tương đương với mức cuối năm 2007 thì các doanh nghiệp lại tỏ ra không mấy mặn mà. Nguyên nhân chủ yếu được xác định là do ảnh hưởng của đợt lạm phát trong nước vừa qua và của cuộc khủng khoảng tài chính toàn cầu đang diễn ra đã làm sức mua trong nước và trên thị trường các nước vốn là nơi tiêu thụ truyền thống sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam giảm mạnh. Như vậy, hệ thống ngân hàng Việt Nam lại đối diện với một thách thức mới. Đó là tìm đầu ra cho những đồng vốn của mình. Trong điều kiện TTBĐS “đóng băng” và TTCK li
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Anh) 2:[Sao chép]
Sao chép!
However, in my opinion, despite Vietnam's banking system is not directly affected from the financial crisis is taking place, but not without problems. The problems that faced the banking system mainly arise from internal factors.
First, the model problem of the banking system. According to Clause 2, Article 20 of the Law on Credit Institutions was enacted by Congress in 1997 and amended and supplemented in 2004, these types of banks in Vietnam include: commercial banks, development banks , investment banks, policy banks, cooperative banks and other types of banks. But under the legislative level are so far, we still do not have a clear distinction about the function of each type of bank. In particular, no legislation has been enacted to regulate the activities of development banks and BIDV - is the banking business with the highest risk. It is this ambiguity has created conditions for banks, the CTTC "encroaching". And in fact, many banks and the CTTC was "not hesitate" to invest in real estate and stocks has brought many consequences for the economy, contributing significantly to boosting the economy to inflation found last time.
Next, is the massive introduction of bank and credit institutions banks, especially the CTTC. Until the present time, we have had more than 80 commercial banks [6] and over 20 financial companies. Most of the CTTC are derived from capital corporations, the big state corporations. As the creation of capital and the regulation of capital between members of groups, corporations, so CTTC easily ignore the essential standards of credit activities in funding to members, the plan Group projects and corporations. This had led to rising credit risk but also increases the risk of "domino effect" when the money markets or business fields of the Group, the corporations have fluctuating [7]. Having too many banks (of which 25% have bank accounts with limited business efficiency) and the CTTC will lead to two major risk is the ability to raise capital in order to maintain business stability and capability bank management, particularly in the current difficult phase.
Moreover, NPL ratio tends to increase due to high credit growth in the banking system also put before the challenge. According to data from the State Bank of Vietnam (SBV), total outstanding loans for real estate lending business is now approximately 115,500 billion, representing 9.15% of total outstanding loans in the system. For 2007, the credit growth rate of Vietnam's banking system was 53% in 2007 - a figure quite high plus 50% of the distance to mortgage loans with real estate will increase debt bad in the last months of 2008, when the loan to the former real estate at attractive market will mature. In TTBDS situation still no sign of prosperity, the banks faced large losses are unavoidable. At the Extraordinary General Meeting of Shareholders of Eximbank announced bank's delinquency is 1,361 billion, accounting for 6.09% of total loans, including bad debt is 619 billion and debts likely loss of 200 billion. Under the leadership of Eximbank, the bank's bad loans mainly real estate loans. Currently, the loan balance of Eximbank property is 4,000 billion, accounting for 18.2% of total loans of banks [8].
Also, the risk of liquidity of the banking system is still potential hidden, although the monetary tightening measures, macroeconomic stability, control inflation, the Government has to take effect. Base rate through four cuts in a short time has been lowered to 10%, required reserves ratio was significantly decreased accompanying the increase in interest rates on this rate, the lending rate Interbank market and discount papers also fell sharply. Besides, the central bank bought compulsory bills issued to the banks before maturity of 20.3 trillion. The move is a sign of "easing monetary policy" flexibility of the government to increase the liquidity of the banking system, creating conditions for banks to lower lending rates for businesses may access to capital. Thereby, stimulate production against the risk of deflation and sustained growth of the economy. But when, the amount of cash in the system increases and the bank has significantly reduced lending rates equivalent to the end of 2007, the business again showed little salty. The main cause was determined to be under the influence of waves past domestic inflation and the financial crisis ongoing globalization has made ​​domestic purchasing power and capital market countries where traditional consumption export products of Vietnam enterprises plummeted. Thus, Vietnam's banking system to face a new challenge. That finding outlets for their capital. In terms TTBDS "frozen" and equities li
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: