2. ajuster la politique fiscale pour surmonter la récession.Selon l'économiste, Japon traitent la crise, le gouvernement japonais a mis en place un certain nombre de solutions dans ce qui suit,2.1. les finances publiques soulagé.Dans point de vue macro-économique, le Japon a été forcé de chercher un plan de relance de la demande intérieure qui n'ignore pas les financiers problèmes ne sont pas comme vous le souhaitez. Le Japon a été un succès relatif au remboursement au cours des deux dernières décennies et a acquis un compte de surplus commercial important. Alors, dans d'autres pays industrialisés, particulièrement aux États-Unis, attendez que le Japon jouera un rôle plus important en stimulant la croissance économique, le commerce mondial. En outre, le marché intérieur demande augmente ont contribué à stimuler la croissance, en particulier des organisations entreprises et la main-d'œuvre. Tant le ministère des affaires étrangères (MAE) et le ministère de l'Economie et du commerce (MITI) sont impliqués et réclame un assouplissement de la politique fiscale moins. Toutefois, le principal obstacle à cette politique fait partie du groupe conservateur financement de ministère des Finances (MOF).MOF cho rằng, các nhân tố kích thích chính không đủ khả năng đảm bảo cho việc Chính phủ sẽ tăng được doanh thu nhằm bù đắp cho việc tăng chi tiêu. Điều họ muốn làm là thực hiện kinh nghiệm của những năm đầu thế kỷ 21. Trong thời gian đó, MOF đã đồng ý chấp nhận một chính sách tài chính mở rộng mà kết quả là dẫn tới lạm phát và sự tăng đột biến của các khoản công nợ. Các quan chức của MOF liên tục chỉ ra rằng, cơ cấu tuổi của dân số Nhật Bản sẽ làm giảm doanh thu của Chính phủ trong khi đó lại mở rộng các khoản chi tiêu công trong các chương trình xã hội. Do đó khả năng tài chính dài hạn của quốc gia phụ thuộc vào việc quản lý, kiểm soát tình trạng bội chi ngân sách. Tuy nhiên, xuất phát từ sự nghiêm trọng của cuộc suy thoái kinh tế buộc những phần tử bảo thủ tài chính của MOF phải chấp nhận thực thi bốn công cụ kích thích giữa tháng 8 năm 1992 và tháng 2 năm 1994 với tổng giá trị lên tới 45,4 nghìn tỉ Yên, tương đương với khoảng 45,4 tỉ đôla (tính toán theo tỉ giá hối đoái đồng Yên so với đồng đôla là ¥100 = $1). Nhưng trên nhiều phương diện khác nhau, những sáng kiến này lại chủ yếu là những cách đối phó với công chúng. Ngân sách chỉ được bổ sung thêm một số ít các khoản chi tiêu mới. Các công cụ kích thích này bao gồm phần lớn các chương trình chi tiêu và vay nợ đã được điều chỉnh lại theo thời gian hay được lên kế hoạch giảm thuế và bảo lãnh vay. Vấn đề cơ bản là Nhật Bản phải tìm ra giải pháp trong công tác hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tạo ra sự tương thích giữa cơ cấu giữa tài chính công và vốn đầu tư tư nhân. Bất chấp sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng, Nhật Bản vẫn là một quốc gia có được thặng dư vốn đầu tư lớn. Nhưng với mức thuế xuất thấp trong tương quan với các nước công nghiệp phát triển khác lại cho thấy Chính phủ Nhật Bản bị hạn chế về khả năng sử dụng khoản thặng dư vốn trong chi tiêu công cộng nhằm kích thích nền kinh tế. Một phần đáng kể trong khoản tiết kiệm tư nhân của Nhật Bản là trong lĩnh vực bưu chính và hưu trí. Các khoản tiết kiệm này lần lượt theo kênh tài chính tham gia vào các Dự án đầu tư tài chính và chương trình cho vay (FILP). Chính phủ Nhật Bản sử dụng FILP nhằm thúc đẩy tái cơ cấu công nghiệp và hỗ trợ các dự án xã hội (ví dụ như nhà cửa công, trang thiết bị giáo dục, các chương trình phúc lợi, phát triển đường xá, …). Đồng thời sử dụng FILP như là phương tiện kích thích kinh tế, trong khi đó MOF tỏ ra lưỡng lự trong việc sử dụng mở rộng FILP. Sự dính líu của một số quan chức cấp cao của Chính phủ và các cán Bộ Công nghiệp, Xây dựng vào các vụ hối lộ hay lừa đảo kinh tế cũng kìm hãm việc sử dụng FILP trợ giúp các công trình công cộng phục vụ cho tăng trưởng kinh tế.2.2. changements dans la politique fiscaleKhi phần tài chính bổ sung và khoản thay thế cho chi tiêu công cộng tăng lên thì một số các nhà kinh tế Nhật Bản có tầm ảnh hưởng đã kiến nghị cắt giảm thuế thu nhập để kích thích nền kinh tế. Nhưng MOF lại kiên quyết chống đối lại . Họ cho rằng, điều đó chỉ thực hiện khi tăng thuế tiêu dùng nhằm đáp ứng nguồn thu bị thâm hụt nếu không nền kinh tế sẽ trở lại tình trạng cũ. Trong thực tế, việc giảm thuế thu nhập và tăng thuế tiêu dùng có mối liên hệ với hệ thống chính trị. Hơn thế, các cá nhân bảo thủ tài chính của MOF lợi dụng vấn đề thuế này để tuyên truyền về một sự cố của chương trình quốc gia khi mà cơ cấu dân số đang có xu hướng già đi. Thông qua việc tăng thuế tiêu dùng, họ hy vọng sẽ tạo cho nền tài chính công của Nhật Bản an toàn, đủ đương đầu với việc tăng các khoản chi tiêu xã hội do già hoá dân số. Các nhà chính trị học hàng đầu như Ichiro, Ozawa của Shishinto và Yoshiro Mori của Đảng Dân chủ ủng hộ việc cắt giảm thuế thu nhập kết hợp với tăng thuế tiêu dùng. Ủy Ban Điều tra Chính phủ về Hệ thống Thuế đã tán thành sự kết hợp này. Các chỉ trích tập trung vào vấn đề cắt giảm thuế thu nhập, kích thích nền kinh tế có thể bị mất đi do ảnh hưởng của tăng thuế tiêu dùng. Cuối cùng thì người ta cũng đi đến một thỏa hiệp, liên minh ba Đảng đồng ý giảm 20% thuế thu nhập cá nhân trong những năm cuối thập kỷ 1990. Cùng lúc đó, Chính phủ ban hành sắc lệnh tăng thuế tiêu dùng từ 3% lên 5%. Tuy nhiên, khoản tăng này không được áp dụng cho đến năm 1997. Điều cần nhấn mạnh là, MOF đã thành công khi có được sự chấp nhận của Quốc hội Nhật Bản trong việc tăng tỉ giá đồng Yên so với đồng đôla và đưa nước này thoát khỏi sự phụ thuộc vào thuế trực thu và chuyển sang thuế gián thu.Tất cả các vấn đề này cho thấy, có một sự không đồng thuận và phản ứng mạnh trong chính trường Nhật Bản đối với sự thâm hụt tài chính khi Quốc hội ban hành một công cụ chính sách đi ngược chính sách tài chính. Người ta thấy nổi lên trong cuộc suy thoái này là sự chuyển đổi cơ cấu của tài chính công để Chính phủ có doanh thu rộng lớn hơn và ổn định hơn. Một số nhà kinh tế học tin rằng, thuế tiêu dùng cao và sự chuyển đổi tổng thể từ thuế trực thu sang thuế gián thu sẽ giúp nước này tiếp nhận được khoản vượt trội từ tiết kiệm cá nhân và hướng các nguồn đó vào đầu tư xã hội nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân Nhật Bản. Sự thay đổi chính sách không chỉ giúp Chính phủ Nhật Bản giảm được khoản thặng dư tài chính hiện tại mà còn giảm được lượng vốn đầu tư cho sản xuất. Điều đó đã thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế và điều tiết xuất khẩu của Nhật Bản. Và tất yếu là các chương trình đầu tư của Nhật Bản sẽ trở nên hài hòa và có hiệu quả hơn so với các quốc gia công nghiệp phát triển khác trên thế giới.Mặc dù MOF rất hăng hái hỗ trợ ý tưởng chuyển dịch từ thuế trực thu sang thuế gián thu, nhưng họ không theo đuổi chính sách tăng tốc nhằm giảm tương đối ngân khoản tiết kiệm trong điều kiện kinh tế vĩ mô của Nhật Bản ẩn chứa nhiều bất ổn. Điều đầu tiên mà Bộ Tài chính tin rằng là tỉ lệ tiết kiệm cao của Nhật Bản sẽ giảm một cách bình thường theo độ tuổi của dân số. Đối với sự mất cân đối kinh tế vĩ mô giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ, họ coi vấn đề này là do tỉ lệ tiết kiệm thấp của kinh tế Hoa Kỳ chứ không phải là tỉ lệ tiết kiệm cao của Nhật Bản. Bởi vậy, MOF lập luận rằng tại sao Nhật Bản phải điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô của mình để thích nghi với tình hình kinh tế Hoa Kỳ? Điều gì đã khiến người Nhật phải theo đuổi các chính sách sai lạc này trong nhiều năm? Ở mức độ các chính sách kinh tế vĩ mô, thì đó là Hoa Kỳ chứ không phải là Nhật Bản phải thay đổi nhiều hơn. Theo một cán bộ cấp cao của MOF, các nỗ lực trong việc điều chỉnh sự mất cân đối kinh tế vĩ mô giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản là một vấn đề cần quan tâm. “Vào thời điểm đồng đôla mất giá, Nhật Bản đang tham gia vào quá trình mở rộng tiêu dùng nội địa thì Hoa Kỳ phải cố gắng giảm khoản thâm hụt Liên bang bằng cách thắt chặt chính sách tiền tệ của mình nhằm điều chỉnh sự mất cân bằng này. Tuy nhiên thay vì làm như vậy, Chính phủ Hoa Kỳ lại làm điều ngược lại”([1]). Và MOF tin rằng khoản thặng dư tài chính hiện tại của Nhật Bản tương đối khả quan. Những khoản thặng dư này có thể tạo điều kiện cho Nhật Bản đảm nhiệm được vai trò lớn hơn trong các vấn đề quốc tế.2.3. Từ bỏ điều tiết kinh tế trực tiếpỞ cấp độ kinh tế vĩ mô, từ bỏ điều tiết kinh tế trực tiếp là một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu, đối với tất cả các Chính phủ kể từ khi kết thúc thời kỳ độc quyền lãnh đạo của Đảng Dân chủ Tự do ( LDP) năm 1993. Thủ tướng Chính phủ Hosokawa lúc đó đã công bố từ bỏ điều tiết như là một phương cách nhằm tiếp thêm sức sống cho nền kinh tế và làm thỏa mãn các áp lực từ phía Hoa Kỳ đối với một nền kinh tế mở. Người kế nhiệm ông Tsutomu Hata cũng cam kết xúc tiến bãi bỏ điều tiết và phi tập trung hóa. Thủ tướng Murayama thậm chí đã cam kết công khai trước Chính phủ của mình rằ
đang được dịch, vui lòng đợi..