PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA VÀ NAYNghiên cứu phụ nữ Việt Nam là lãnh vực chưa  dịch - PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA VÀ NAYNghiên cứu phụ nữ Việt Nam là lãnh vực chưa  Anh làm thế nào để nói

PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA VÀ NAYNghiên cứ

PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA VÀ NAY

Nghiên cứu phụ nữ Việt Nam là lãnh vực chưa có nhiều người đi sâu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, cũng như trong toàn thế giới chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, người ta rất coi trọng “truyền thống lịch sử”, trong đó có”truyền thống phụ nữ” và “người phụ nữ truyền thống”. Từ khi mở cửa và bước đầu hội nhập thế giới hiện đại, người ta vẫn quan tâm, hay đúng ra lại càng quan tâm hơn đến truyền thống phụ nữ. Ngày Quốc tế Phụ nữ Tám tháng Ba được kỷ niệm cùng với Lễ Hai Bà Trưng ngày Sáu tháng Hai âm lịch. Nhân ngày này, Hội Liên hiệp Phụ nữ trung ương cũng như địa phương thường nhắc “truyền thống phụ nữ Việt Nam” để cổ động “Vì sự tiến bộ của phụ nữ” mà không cảm thấy mâu thuẫn chút nào. Thế nhưng, bất cứ ai quan tâm đến quyền lợi giới đều có thể nhắc chúng ta quả thật lạ lùng nếu, giữa “bảo tồn truyền thống” và “đấu tranh vì tiến bộ”, mục tiêu và vấn đề cần chú ý lại hoàn toàn thống nhất với nhau; huống nữa khi cuộc vận động tiến bộ cho phụ nữ diễn ra trong một xã hội thấm nhuần đạo lý Nho giáo tự lâu đời.

Trong bài viết mang tính đề dẫn cho một diễn đàn mong sẽ đón nhận đóng góp của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều bạn đọc nữ cũng như nam, chúng tôi xin nêu vài suy nghĩ gợi mở để trao đổi ý kiến.

Truyền thống quý trọng và tôn vinh phụ nữ?

Có nhiều nguyên nhân lịch sử và văn hóa giải thích vai trò quan trọng của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam truyền thống. Văn minh Đông Nam Á bản địa trước khi tiếp thu ảnh hưởng văn hóa Ấn-Hoa vốn có đặc trưng là văn minh nông nghiệp độc canh cây lúa, đặc biệt là lúa nước, giống cây đòi hỏi nhiều công sức lao động thủ công đến nỗi thành viên nữ khó bị gạt ra ngoài lề sản xuất. Đông Nam Á cũng có chế độ mẫu hệ phổ biến và dai dẳng; có nhiều nữ thần đến mức nữ hóa một số Phật và Bồ tát nam, mà trường hợp điển hình nhất là Phật bà Quan âm biến thái từ Quan (cũng đọc Quán) thế âm Bồ tát. Những yếu tố cổ đại này đến nay vẫn là thực tế xã hội, bảo đảm tính bền vững của truyền thống.

Một thực tế lịch sử khác là tập quán dùng đê điều ngăn lũ lụt – lâu đời như được ghi dấu trong truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh – có tác dụng cố kết cộng đồng, huy động đông đảo người nam tham gia lao động công ích. Chiến tranh, kể cả chống ngoại xâm và nội chiến kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, có khi nhiều chục hay đến mấy trăm năm, càng đặt người phụ nữ vào tình thế thường xuyên gánh vác việc nhà và cả việc làng, việc xóm. “Chàng ơi phải lính thì đi, Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.”

Các truyền thuyết thời Hùng Vương khắc sâu trong ký ức cộng đồng những giá trị cội nguồn dân tộc Việt. Mẹ Âu Cơ sinh trăm trứng nở trăm con, nhắc nhở “đồng bào” là một mẹ sinh ra, dẫu nòi Rồng giống Tiên là “tương khắc, bất đồng” mà vẫn dung nạp khác biệt, hòa hợp âm dương sinh sôi con đàn cháu đống. Ngôn ngữ Việt không “duy lý” mà đậm đà tình cảm, thậm chí là nhục cảm: cốt nhục, đồng bào, ruột thịt, rồi lòng mẹ, đất mẹ, tổ quốc thường ví với mẹ hiền… Người phụ nữ trong truyền thuyết thời sơ sử hồn nhiên mà quyết liệt, trong nghịch cảnh vẫn khẳng định mình như Tiên Dong, như người vợ của hai anh em song sinh trong tích Trầu Cau, như người đàn bà vọng phu ôm con hóa đá, như Mỵ Châu dẫu hai lần mang trọng tội vẫn được khoan dung nhìn nhận là trắng ngần, trong suốt ngọc trai.

Lịch sử Việt Nam có hơn nghìn năm Bắc thuộc trong hơn hai nghìn năm lịch sử biết tương đối rõ ràng. Mở đầu trang sử chống Bắc thuộc là chiến công của hai nữ tướng: “Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.” Lời thề xuất quân của Hai Bà Trưng được ghi lại trong Thiên nam ngữ lục: “Một xin rửa sạch nước thù, Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng, Ba kẻo oan ức lòng chồng, Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này.” Nợ nước trước thù chồng, tham gia gánh vác việc chung là điều rất bình thường trong vô số nữ binh, nữ tướng hưởng ứng khởi nghĩa Mê Linh dưới trướng Hai Bà. Chỉ vài thế kỷ sau đó, người thiếu nữ Triệu Thị Trinh đã phải tự khẳng định mình vượt lên trên thường tình nhi nữ: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng kình ngoài biển Đông, quét sạch quân Ngô ra ngoài bờ cõi chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta.” Lẫm liệt là như thế, một lý tưởng đời người, oai phong là như thế, Vua Bà làm kinh sợ đối phương. Nhưng suốt nhiều trăm năm tiếp theo, do trật tự nam trọng nữ khinh, nam ngoại nữ nội, phụ nữ hình như không có mặt hay không còn lưu dấu trong lịch sử chiến tranh, ngoại trừ hiếm hoi những ả Đào, những phụ nữ vô danh trong khởi nghĩa Lam Sơn, hay trong đội quân áo vải cờ đào của Quang Trung Nguyễn Huệ. Nữ tướng Bùi Thị Xuân, rồi vợ ba Cai Vàng, vợ ba Đề Thám, những danh xưng nhiều khi chưa lưu dấu tên người phụ nữ nhưng đủ minh chứng truyền thống quật cường của những người đàn bà không chỉ làm vợ và làm mẹ.

Nhưng lịch sử nào phải chỉ có chiến tranh và khởi nghĩa. Ỷ Lan từ cô gái hái dâu trở thành nguyên phi, rồi Thái hậu; hai lần nhiếp chính thay chồng, thay con trị nước là hai lần để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng người. Được tôn xưng Phật bà Quan âm vì dân no ấm, khiến Thánh Tông không thể lui quân mà không giành chiến thắng; kiên quyết chống tệ nạn lạm sát trâu là sức kéo cho nông nghiệp; nhân hậu và thấu cận nhân tình khi xuất của kho chuộc gái nhà nghèo ở đợ đem gả cho trai nghèo không tiền cưới vợ với người ta, “đổi đời cho họ” như lời bình của sử thần Ngô Sĩ Liên. Đến nỗi thảm sát hơn bảy mươi mạng người vì tranh chấp quyền lực mà vẫn được sử gia nho sĩ khoan dung, ấy là bởi công lớn với đời hay bởi nhà nho thông cảm tâm hồn phụ nữ: “Ghen là thường tình của đàn bà”? Dương Vân Nga, hoàng hậu của hai vua; Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng rồi bị giáng làm công chúa vì cái “tội” oan khiên là không con nối dõi; Trần Thị Dung, hoàng phi triều Lý và Quốc mẫu triều Trần; nàng công chúa Trần Huyền Trân trở thành bà hoàng Chiêm quốc để đất nước thêm hai châu Ô, Rí; Trịnh Thị Ngọc Trúc với hai đời chồng ngang trái nhưng là tác giả những công trình nghiên cứu tâm huyết và uyên bác… Trần Thị Thái và Nguyễn Thị Lộ đóng vai trò nào trong cuộc đời danh nhân Nguyễn Trãi? Văn thơ hay danh phận được nhiều đời truyền tụng, nhưng hậu thế hiểu đến đâu tâm hồn phụ nữ của những Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Thị Hinh (mà người đời thường chỉ biết dưới danh xưng bà Huyện Thanh Quan), Hồ Xuân Hương, Lê Ngọc Hân hay gần hơn là những bà Từ Dũ, Từ Cung và cô Mariette Nguyễn Thị Lan được phong Nam Phương hoàng hậu?… Và bao nhiêu nữa những phụ nữ con vua cháu chúa hay lam lũ dân thường với những số phận, tâm tư còn chờ trang sử cũ được soi thêm quan điểm giới? Dẫu sao, chính sử Việt Nam tuy ít nói về phụ nữ song thường lưu dấu hình ảnh đẹp; cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ đầu công nguyên được trân trọng ghi chép và bình luận, tôn vinh kể cả trong những thời Nho giáo độc tôn cứng rắn nhất.

Anh hùng, bất khuất, không chỉ trong đấu tranh vũ trang; trung hậu, đảm đang, không chỉ trong cuộc sống gia đình; người phụ nữ Việt Nam đã khẳng định mình trong nhiều lãnh vực và hình như cũng được thừa nhận một cách đáng kể, khác biệt khá rõ so với láng giềng Á Đông như Trung quốc, Triều Tiên, Nhật Bản.

“Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng”, người cha nông dân nhìn nhận. Anh trai làng bức xúc: “Trăng lên đỉnh núi trăng tà, Em còn ở đó làm giàu cho cha?” Người vợ tự tin: “Một mai thiếp có xa chàng, Đôi bông thiếp trả đôi vàng thiếp xin” (đôi bông là sính lễ, đôi vàng là do “của chồng công vợ” mà sắm được). Người mẹ lo thầm thương trẻ cút côi, hay láng giềng so đo nhận xét: “Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ liếm lá đầu đường.” Chế độ phụ quyền Nho giáo thiết lập nam tôn nữ ti từ luật pháp, lệ làng đến luân thường đạo lý. Nhưng tôn ti chính thống không hoàn toàn triệt tiêu thực tế ăn sâu từ cội nguồn gia đình, làng xã. Người phụ nữ Việt Nam tham gia lao động sản xuất làm ra của cải vật chất và thường là nguồn yêu thương chăm sóc chồng con, đỡ đần cha già mẹ yếu, là chỗ dựa cho gia đình về nhiều phương diện. Đảm đang, tần tảo là từ Hán Việt, có thể ngược về từ nguyên từ cổ đại Trung Hoa; nhưng mẹ hiền vợ đảm thì ai cũng hiểu là những người phụ nữ Việt lặn lội thân cò, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm, cùng lúc làm nhiều việc mà việc nào cũng chu tất, vẹn toàn, là người giỏi giang, hiệu quả mà thầm lặng hy sinh. Vô số ca dao hát về tình yêu đôi lứa trong đó phụ nữ là đối tượng yêu thương, mong nhớ, khát khao, cả giận hờn, oán trách hay thương cảm, xót xa. Cũng rất nhiều bài nói lên sự quý trọng đối với công lao “gánh vác giang sơn nhà chồng”, lòng biết ơn và tình cảm sâu sắc, thiết tha của con gái, con trai đối với công cha nghĩa mẹ. Người yêu, người vợ, người mẹ, nói chung là người phụ nữ được yêu thương chiếm vị trí rất lớn trong ca dao và trong tâm hồn người Việt.


Như vậy phải chă
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
PHỤ NỮ VIỆT NAM XƯA VÀ NAYNghiên cứu phụ nữ Việt Nam là lãnh vực chưa có nhiều người đi sâu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, cũng như trong toàn thế giới chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, người ta rất coi trọng “truyền thống lịch sử”, trong đó có”truyền thống phụ nữ” và “người phụ nữ truyền thống”. Từ khi mở cửa và bước đầu hội nhập thế giới hiện đại, người ta vẫn quan tâm, hay đúng ra lại càng quan tâm hơn đến truyền thống phụ nữ. Ngày Quốc tế Phụ nữ Tám tháng Ba được kỷ niệm cùng với Lễ Hai Bà Trưng ngày Sáu tháng Hai âm lịch. Nhân ngày này, Hội Liên hiệp Phụ nữ trung ương cũng như địa phương thường nhắc “truyền thống phụ nữ Việt Nam” để cổ động “Vì sự tiến bộ của phụ nữ” mà không cảm thấy mâu thuẫn chút nào. Thế nhưng, bất cứ ai quan tâm đến quyền lợi giới đều có thể nhắc chúng ta quả thật lạ lùng nếu, giữa “bảo tồn truyền thống” và “đấu tranh vì tiến bộ”, mục tiêu và vấn đề cần chú ý lại hoàn toàn thống nhất với nhau; huống nữa khi cuộc vận động tiến bộ cho phụ nữ diễn ra trong một xã hội thấm nhuần đạo lý Nho giáo tự lâu đời. Trong bài viết mang tính đề dẫn cho một diễn đàn mong sẽ đón nhận đóng góp của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều bạn đọc nữ cũng như nam, chúng tôi xin nêu vài suy nghĩ gợi mở để trao đổi ý kiến.Truyền thống quý trọng và tôn vinh phụ nữ?Có nhiều nguyên nhân lịch sử và văn hóa giải thích vai trò quan trọng của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam truyền thống. Văn minh Đông Nam Á bản địa trước khi tiếp thu ảnh hưởng văn hóa Ấn-Hoa vốn có đặc trưng là văn minh nông nghiệp độc canh cây lúa, đặc biệt là lúa nước, giống cây đòi hỏi nhiều công sức lao động thủ công đến nỗi thành viên nữ khó bị gạt ra ngoài lề sản xuất. Đông Nam Á cũng có chế độ mẫu hệ phổ biến và dai dẳng; có nhiều nữ thần đến mức nữ hóa một số Phật và Bồ tát nam, mà trường hợp điển hình nhất là Phật bà Quan âm biến thái từ Quan (cũng đọc Quán) thế âm Bồ tát. Những yếu tố cổ đại này đến nay vẫn là thực tế xã hội, bảo đảm tính bền vững của truyền thống.Một thực tế lịch sử khác là tập quán dùng đê điều ngăn lũ lụt – lâu đời như được ghi dấu trong truyền thuyết Sơn Tinh-Thủy Tinh – có tác dụng cố kết cộng đồng, huy động đông đảo người nam tham gia lao động công ích. Chiến tranh, kể cả chống ngoại xâm và nội chiến kéo dài nhiều tháng, nhiều năm, có khi nhiều chục hay đến mấy trăm năm, càng đặt người phụ nữ vào tình thế thường xuyên gánh vác việc nhà và cả việc làng, việc xóm. “Chàng ơi phải lính thì đi, Cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi.”Các truyền thuyết thời Hùng Vương khắc sâu trong ký ức cộng đồng những giá trị cội nguồn dân tộc Việt. Mẹ Âu Cơ sinh trăm trứng nở trăm con, nhắc nhở “đồng bào” là một mẹ sinh ra, dẫu nòi Rồng giống Tiên là “tương khắc, bất đồng” mà vẫn dung nạp khác biệt, hòa hợp âm dương sinh sôi con đàn cháu đống. Ngôn ngữ Việt không “duy lý” mà đậm đà tình cảm, thậm chí là nhục cảm: cốt nhục, đồng bào, ruột thịt, rồi lòng mẹ, đất mẹ, tổ quốc thường ví với mẹ hiền… Người phụ nữ trong truyền thuyết thời sơ sử hồn nhiên mà quyết liệt, trong nghịch cảnh vẫn khẳng định mình như Tiên Dong, như người vợ của hai anh em song sinh trong tích Trầu Cau, như người đàn bà vọng phu ôm con hóa đá, như Mỵ Châu dẫu hai lần mang trọng tội vẫn được khoan dung nhìn nhận là trắng ngần, trong suốt ngọc trai.Lịch sử Việt Nam có hơn nghìn năm Bắc thuộc trong hơn hai nghìn năm lịch sử biết tương đối rõ ràng. Mở đầu trang sử chống Bắc thuộc là chiến công của hai nữ tướng: “Đô kỳ đóng cõi Mê Linh, Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.” Lời thề xuất quân của Hai Bà Trưng được ghi lại trong Thiên nam ngữ lục: “Một xin rửa sạch nước thù, Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng, Ba kẻo oan ức lòng chồng, Bốn xin vẹn vẹn sở công lênh này.” Nợ nước trước thù chồng, tham gia gánh vác việc chung là điều rất bình thường trong vô số nữ binh, nữ tướng hưởng ứng khởi nghĩa Mê Linh dưới trướng Hai Bà. Chỉ vài thế kỷ sau đó, người thiếu nữ Triệu Thị Trinh đã phải tự khẳng định mình vượt lên trên thường tình nhi nữ: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng dữ, chém cá tràng kình ngoài biển Đông, quét sạch quân Ngô ra ngoài bờ cõi chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta.” Lẫm liệt là như thế, một lý tưởng đời người, oai phong là như thế, Vua Bà làm kinh sợ đối phương. Nhưng suốt nhiều trăm năm tiếp theo, do trật tự nam trọng nữ khinh, nam ngoại nữ nội, phụ nữ hình như không có mặt hay không còn lưu dấu trong lịch sử chiến tranh, ngoại trừ hiếm hoi những ả Đào, những phụ nữ vô danh trong khởi nghĩa Lam Sơn, hay trong đội quân áo vải cờ đào của Quang Trung Nguyễn Huệ. Nữ tướng Bùi Thị Xuân, rồi vợ ba Cai Vàng, vợ ba Đề Thám, những danh xưng nhiều khi chưa lưu dấu tên người phụ nữ nhưng đủ minh chứng truyền thống quật cường của những người đàn bà không chỉ làm vợ và làm mẹ.Nhưng lịch sử nào phải chỉ có chiến tranh và khởi nghĩa. Ỷ Lan từ cô gái hái dâu trở thành nguyên phi, rồi Thái hậu; hai lần nhiếp chính thay chồng, thay con trị nước là hai lần để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng người. Được tôn xưng Phật bà Quan âm vì dân no ấm, khiến Thánh Tông không thể lui quân mà không giành chiến thắng; kiên quyết chống tệ nạn lạm sát trâu là sức kéo cho nông nghiệp; nhân hậu và thấu cận nhân tình khi xuất của kho chuộc gái nhà nghèo ở đợ đem gả cho trai nghèo không tiền cưới vợ với người ta, “đổi đời cho họ” như lời bình của sử thần Ngô Sĩ Liên. Đến nỗi thảm sát hơn bảy mươi mạng người vì tranh chấp quyền lực mà vẫn được sử gia nho sĩ khoan dung, ấy là bởi công lớn với đời hay bởi nhà nho thông cảm tâm hồn phụ nữ: “Ghen là thường tình của đàn bà”? Dương Vân Nga, hoàng hậu của hai vua; Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng rồi bị giáng làm công chúa vì cái “tội” oan khiên là không con nối dõi; Trần Thị Dung, hoàng phi triều Lý và Quốc mẫu triều Trần; nàng công chúa Trần Huyền Trân trở thành bà hoàng Chiêm quốc để đất nước thêm hai châu Ô, Rí; Trịnh Thị Ngọc Trúc với hai đời chồng ngang trái nhưng là tác giả những công trình nghiên cứu tâm huyết và uyên bác… Trần Thị Thái và Nguyễn Thị Lộ đóng vai trò nào trong cuộc đời danh nhân Nguyễn Trãi? Văn thơ hay danh phận được nhiều đời truyền tụng, nhưng hậu thế hiểu đến đâu tâm hồn phụ nữ của những Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Thị Hinh (mà người đời thường chỉ biết dưới danh xưng bà Huyện Thanh Quan), Hồ Xuân Hương, Lê Ngọc Hân hay gần hơn là những bà Từ Dũ, Từ Cung và cô Mariette Nguyễn Thị Lan được phong Nam Phương hoàng hậu?… Và bao nhiêu nữa những phụ nữ con vua cháu chúa hay lam lũ dân thường với những số phận, tâm tư còn chờ trang sử cũ được soi thêm quan điểm giới? Dẫu sao, chính sử Việt Nam tuy ít nói về phụ nữ song thường lưu dấu hình ảnh đẹp; cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ đầu công nguyên được trân trọng ghi chép và bình luận, tôn vinh kể cả trong những thời Nho giáo độc tôn cứng rắn nhất.
Anh hùng, bất khuất, không chỉ trong đấu tranh vũ trang; trung hậu, đảm đang, không chỉ trong cuộc sống gia đình; người phụ nữ Việt Nam đã khẳng định mình trong nhiều lãnh vực và hình như cũng được thừa nhận một cách đáng kể, khác biệt khá rõ so với láng giềng Á Đông như Trung quốc, Triều Tiên, Nhật Bản.

“Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng”, người cha nông dân nhìn nhận. Anh trai làng bức xúc: “Trăng lên đỉnh núi trăng tà, Em còn ở đó làm giàu cho cha?” Người vợ tự tin: “Một mai thiếp có xa chàng, Đôi bông thiếp trả đôi vàng thiếp xin” (đôi bông là sính lễ, đôi vàng là do “của chồng công vợ” mà sắm được). Người mẹ lo thầm thương trẻ cút côi, hay láng giềng so đo nhận xét: “Mồ côi cha ăn cơm với cá, mồ côi mẹ liếm lá đầu đường.” Chế độ phụ quyền Nho giáo thiết lập nam tôn nữ ti từ luật pháp, lệ làng đến luân thường đạo lý. Nhưng tôn ti chính thống không hoàn toàn triệt tiêu thực tế ăn sâu từ cội nguồn gia đình, làng xã. Người phụ nữ Việt Nam tham gia lao động sản xuất làm ra của cải vật chất và thường là nguồn yêu thương chăm sóc chồng con, đỡ đần cha già mẹ yếu, là chỗ dựa cho gia đình về nhiều phương diện. Đảm đang, tần tảo là từ Hán Việt, có thể ngược về từ nguyên từ cổ đại Trung Hoa; nhưng mẹ hiền vợ đảm thì ai cũng hiểu là những người phụ nữ Việt lặn lội thân cò, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm, cùng lúc làm nhiều việc mà việc nào cũng chu tất, vẹn toàn, là người giỏi giang, hiệu quả mà thầm lặng hy sinh. Vô số ca dao hát về tình yêu đôi lứa trong đó phụ nữ là đối tượng yêu thương, mong nhớ, khát khao, cả giận hờn, oán trách hay thương cảm, xót xa. Cũng rất nhiều bài nói lên sự quý trọng đối với công lao “gánh vác giang sơn nhà chồng”, lòng biết ơn và tình cảm sâu sắc, thiết tha của con gái, con trai đối với công cha nghĩa mẹ. Người yêu, người vợ, người mẹ, nói chung là người phụ nữ được yêu thương chiếm vị trí rất lớn trong ca dao và trong tâm hồn người Việt.


Như vậy phải chă
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: