Vùng quặng Lang Hích (Thái Nguyên) nằm ở phía đông nam cấu trúc Lô Gâm. Tại đây đã xác lập được các biểu hiện Pb - Zn tập trung trong các trầm tích carbonat - lục nguyên tuổi Devon sớm, đôi khi trong các tập đá carbonat thuộc hệ tầng trầm tích lục nguyên tuổi Cambri (Є2-3) và đá vôi trứng cá tuổi Paleozoi muộn (C-P)hệ tầng Bắc Sơn. Tụ khoáng có ý nghĩa công nghiệp trong khu vực này là Lang Hích, phân bố trong trầm tích tuổi Devon sớm, hệ tầng Sông Cầu(D1sc). Trong thành phần của hệ tầng này, chiếm ưu thế là các đá carbonat với các lớp kẹp cuội kết, cát kết và đá phiến sét. Các đá bị vò nhàu,uốn nếp và bị chia cắt bởi các phá hủy kiến tạo cóphương khác nhau. Vùng mỏ Lang Hích bao gồmba khu vực riêng biệt: Bắc Lâu, Mỏ Ba và MêTích, nằm trùng với các nút giao cắt của các cấutrúc phương kinh tuyến và đông bắc - tây nam. Cácđới quặng hóa phân bố trong các tập đá vôi dạngkhối giàu vật chất than, xen lẫn các tập bột kết, đáphiến sét và cát kết (khu vực Mỏ Ba). Thành phầnđá vây quanh thay đổi từ đá vôi chứa vật chất hữucơ sáng màu với thấu kính calcite tinh thể đến đácarbonat chứa than với kiến trúc hạt lớn màu xámvà gân mạch carbonat - thạch anh. Quặng hóa Pb-Zn tạo thành các mạch có bề dày từ vài centimetđến 2,5m cũng như các thể nhỏ dạng ổ xâm tán.Dựa vào thành phần khoáng vật, có thể phân chiaquặng thành kiểu chủ yếu là quặng kẽm (sphaleritgalenit)với hàm lượng sphalerit đến 90% và quặngchì (galenit - sphalerit) với sự chiếm ưu thế của cáctập hợp galenit đến 50% hoặc hơn. Có thể gặp cáckiểu quặng trung gian với hàm lượng thay đổi củagalenit và sphalerit. Dựa theo các dấu hiệu cấu tạo,có thể phân biệt các dạng xâm tán - gân mạch và đặc xít
đang được dịch, vui lòng đợi..