Nhà báo trẻ đến từ Illinois bị cuốn vào cuộc Thế chiến thứ nhất khi ông tình nguyện làm lái xe cứu thương ở Italia. Ông bị thương lần đầu ở chiến tuyến Piave với những vết thương rất nặng do vỏ đạn vỡ bắn vào. Lần bị thương khốc liệt ở độ tuổi 19 là một nhân tố quan trọng trong tiểu sử của Hemingway. Chẳng những sự kiện đó không làm ông nhụt chí, mà ngược lại, ông coi việc một nhà văn được tận mắt chứng kiến chiến tranh - như Tolstoy ở Sevastopol - là một tài sản vô giá: chứng kiến, và mô tả chiến tranh một cách chân thực nhất. Tuy nhiên, phải mất vài năm ông mới diễn tả được trọn vẹn dưới góc độ nghệ thuật những ấn tượng hỗn độn một cách đau đớn của ông về chiến tuyến Piave năm 1918: kết quả là tác phẩm Giã từ vũ khí (A Farewell to Arms) ra đời năm 1929. Nó đã thực sự đem lại danh tiếng cho ông, mặc dù phong cách tự sự độc đáo của ông đã được minh chứng qua hai tác phẩm nổi bật [trước đó] về thời hậu chiến ở Châu Âu, Trong thời đại chúng ta (In Our Times, 1924) và Mặt trời cũng mọc (The Sun Also Rises, 1926). Những năm sau đó, thiên hướng bẩm sinh của ông về những cảnh tượng đau thương và nhẫn tâm đã đưa ông đến Châu Phi với tập quán săn thú rừng quy mô lớn và Tây Ban Nha với trò đấu bò. Khi Tây Ban Nha trở thành bãi chiến trường, ông đã tìm được cảm hứng cho tác phẩm lớn thứ hai, Chuông nguyện hồn ai (For Whom the Bell Tolls, 1940) về một người Mỹ tham gia cuộc chiến vì tự do và "phẩm giá con người", một cuốn sách mà ở đó những cảm xúc cá nhân của nhà văn được thể hiện sâu sắc hơn bất cứ đâu khác.------------
đang được dịch, vui lòng đợi..