LINH ANH’s PRODUCTIONGiáo trình luật NH CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN dịch - LINH ANH’s PRODUCTIONGiáo trình luật NH CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN Anh làm thế nào để nói

LINH ANH’s PRODUCTIONGiáo trình luậ

LINH ANH’s PRODUCTION

Giáo trình luật NH

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT NGÂN HÀNG TRONG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM


I. KHÁI NIỆM HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG, NGÂN HÀNG VÀ CẤU TRÚC HỆ THỐNG NGÂN HÀNG


1 Sự hình thành của hoạt động ngân hàng và các ngân hàng:


Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của tiền tệ. Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, để đáp ứng nhu cầu lưu thông, trao đổi hàng hóa, người ta đã “sáng tạo” ra tiền tệ đóng vai trò là vật ngang gia chung. Trước đây, đối với nền kinh tế hàng hóa giản đơn, phương thức trao đổi sơ khai “hàng đổi hàng” được các bên áp dụng. Tuy nhiên, phương thức này chỉ khả thi khi cả hai bên cùng lúc có nhu cầu về hàng hóa của nhau một cách tương thích. Do vậy, nhiều trường hợp phương thức “hàng đổi hàng” trở nên không hữu hiệu trong khi nhu cầu trao đổi giữa các bên vẫn có. Theo thời gian, hoạt động lưu thông, trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển, một phương thức trao đổi tiến bộ hơn đã được áp dụng, đó là “hàng-vật ngang giá chung-hàng”. Thực chất, các vật ngang giá chung đó mang bản chất của tiền và được xem như hình thức sơ khai đầu tiên của tiền tệ. Ở giai đoạn đầu, vật ngang giá chung-tiền được các bên ấn định là vật có giá trị thực chẳng hạn như da thú, kim loại, vỏ sò….Về sau, để giản tiện và ít tốn công bảo quản, người ta đã biết đến hình thức của tiền tiến bộ hơn. Theo đó, các bên có thể quy ước với nhau về vật ngang giá chung mang tính chất ước lệ, không nhất thiết phải là vật có giá trị thực chẳng hạn như tiền kim loại, tiền giấy…


Sự xuất hiện của tiền tệ càng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình lưu thông mua bán hàng hóa. Hoạt động trao đổi ngày càng phát triển, vượt ra khỏi phạm vi giữa một vùng, khu vực, quốc gia nhất định. Các thương nhân có thể mang hàng hóa tiến hành trao đổi giữa các vùng lãnh thổ, khu vực khác nhau. Tuy nhiên, theo đặc trưng vùng miền, tập quán, xã hội tồn tại nhiều hình thức tiền tệ đóng vai trò là vật ngang giá chung khác nhau. Do đó, nhu cầu chuyển đổi tiền tệ phù hợp với từng vùng, nơi mà các thương nhân đến trao đổi hàng hóa đã nảy sinh. Nhằm thỏa mãn nhu cầu lưu thông, trao đổi hàng hóa phát triển liên tục xã hội xuất hiện những thương nhân đầu tiên chuyên thực hiện dịch vụ trao đổi chính vật ngang giá chung-tiền tệ. Để xác nhận dịch vụ trao đổi tiền đã được thực hiện, các thương nhận nhận chuyển đổi tiền sẽ phát hành chứng thư mang bản chất của biên nhận về gửi, giữ tài sản là tiền tệ. Về sau, cùng với chế độ tư hữu hóa làm xuất hiện giai cấp và phân biệt giữa những người nắm giữ nhiều tài sản với những người sỡ hữu ít ỏi số tài sản xã hội dưới hình thức giá trị là tiền đã làm nảy sinh những mâu thuẫn về cung, cầu liên quan đến việc sử dụng tiền tệ. Những thương nhân nhận cất giữ trong kho loại tài sản được đưa ra làm vật ngang chung vô hình chung trở thành những chủ thể trung gian có thể tạm thời giải quyết được mâu thuẫn giữa những người đang có nhu cầu về tiền với những thành viên còn lại đang tạm thời nhàn rỗi tiền tệ kiếm được trong quá trình sản xuất, lưu thông, trao đổi hàng hóa. Những thương nhân này không chỉ thuần túy làm dịch vụ kho quỹ mà còn làm trung gian thanh toán, thực hiện dịch vụ nhận, sử dụng cho vay những đồng tiền đang tạm thời nhàn rỗi. Các thương nhân này trở thành những người đầu tiên kinh doanh tiền tệ. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy, nghề ngân hàng xuất hiện đầu tiên ở miền Bắc Italia vào thời kỳ trung cổ. Người Italia gọi nghề kinh doanh này là “Banco”.[1]
Có thể thấy rằng, bắt đầu từ việc vật ngang giá chung xuất hiện trong mua bán, trao đổi hàng hóa, các quan hệ và hoạt động kinh doanh dịch vụ trao đổi liên quan trực tiếp đến vật ngang giá chung đã được hình thành. Khi vật ngang giá chung được cố định bằng những vật liệu có giá trị nội tại cao và có nhiều thuộc tính tự nhiên thuận tiện cho việc bảo quản, chia nhỏ cũng như lưu hành, khi đó vật ngang giá chung chính thức được xem là tiền tệ. Cùng với nó là sự xuất hiện của những thương gia chuyên kinh doanh những dịch vụ này mang tính chất của hoạt động ngân hàng và những ngân hàng ở giai đoạn sơ khai. Chính sự ra đời của ngân hàng và hoạt động kinh doanh tiền tệ là kết quả phân công lao động xã hội trong lưu thông tiền tệ và thực hiện chức năng của tiền tệ.[2]

Trong lịch sử, quá trình phát triển của các mô hình ngân hàng và các loại hình tín dụng có mối quan hệ mật thiết với quá trình phát triển của sản xuất, lưu thông hàng hóa, tiền tệ. Cho đến thế kỷ 15, những tổ chức chuyên kinh doanh các dịch vụ liên quan đến tiền tệ phục vụ cho quá trình trao đổi mua bán chính thức được thành lập và được gọi tên là ngân hàng. Ở giai đoạn này, hoạt động của các ngân hàng vẫn mang tính riêng lẽ, biệt lập, chưa hình thành nên một hệ thống, chưa có sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi ngân hàng đều có những hoạt động nghiệp vụ như phát hành tiền, nhận tiền gửi, cho vay, làm dịch vụ thanh toán, chuyển đổi tiền. Mô hình ngân hàng được thực hiện tất cả các dịch vụ từ phát hành tiền cho đến các hình thức dịch vụ khác một cách song song được gọi là mô hình ngân hàng một cấp.

Đến cuối thế kỷ 19, sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển cao hơn đòi hỏi phạm vi và không gian trao đổi phải được mở rộng hơn nữa. Với mô hình ngân hàng một cấp, trong cùng một quốc gia có thể tồn tại cùng lúc nhiều loại tiền tệ khác nhau, tương ứng với những ngân hành phát hành khác nhau. Sự tồn tại cùng lúc các loại tiền tệ dưới hình thức kỳ phiếu ngân hàng ở phạm vi một quốc gia đã gây trở ngại cho sản xuất, lưu thông hàng hóa, dẫn đến tình trạng thừa tiền, lạm phát. Do vậy, ở một số quốc gia, nhà nước đã can thiệp để tháo gỡ trở ngại này bằng cách chỉ cho phép một số ngân hàng thỏa mãn một số điều kiện nhất định mới được phép phát hành tiền đưa vào lưu thông. Các ngân hàng không đủ điều kiện để phát hành tiền dưới dạng kỳ phiếu ngân hàng thì chỉ được tiến hành các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng như nhận tiền gửi, cho vay, chuyển, đổi tiền… Như vậy, hoạt động ngân hàng đã hình thành hai hệ thống ngân hàng: ngân hàng phát hành và ngân hàng trung gian. Điều này đã dẫn đến quá trình chuyển đổi mô hình ngân hàng một cấp sang mô hình ngân hàng hai cấp. Theo đó mô hình ngân hàng hai cấp sẽ có sự phân biệt giữa ngân hàng thực hiện hoạt động phát hành tiền với những ngân hàng còn lại chỉ được phép tiến hành các hoạt động ngân hàng thuần túy mà không được phép phát hành tiền.

Đến cuối thế kỷ 19, hệ quả của việc phát triển mạnh mẽ của lưu thông hàng hóa và tiền tệ và yêu cầu ngăn chặn hiện tượng lạm phát có thể gia tăng đã đòi hỏi thống nhất thị trường tiền tệ sao cho mỗi quốc gia chỉ lưu hành một đồng tiền duy nhất và nhà nước phải kiểm soát được lượng tiền tệ lưu thông. Do vậy, nhiều nước đã ban hành pháp luật quy định chỉ cho phép một ngân hàng duy nhất được phép tiến hành hoạt động phát hành tiền. Ngân hàng này được gọi là ngân hàng phát hành tiền và phân biệt với các ngân hàng trung gian còn lại không được phép phát hành tiền. Từ đặc quyền do nhà nước quy định, ngân hàng phát hành tiền ngay càng có vị trí quan trọng trong nền sản xuất, lưu thông hàng hóa cũng như tác động chi phối đến hệ thống các ngân hàng trung gian. Chính vì lẽ đó, để định hướng hoạt động sản xuất, thương mại và kiểm soát được lượng tiền tệ phát hành, lưu thông nhằm kiểm soát được hiện tượng lạm phát, nhà nước đã sử dụng quyền lực chính trị để có thể chi phối được ngân hàng phát hành tiền. Hiện tượng này bắt đầu cho quá trình quốc hữu hóa ngân hàng phát hành tiền. Từ đầu thế kỷ XX và phổ biến là từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945), hầu hết các quốc gia đã thực hiện việc quốc hữu hóa ngân hàng phát hành tiền. Theo đó, ngân hàng này trở thành ngân hàng trung ương, ngân hàng nhà nước, có vị trí đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất lưu thông và mang bản chất là “ngân hàng của các ngân hàng”. Ngân hàng trung ương ngoài đặc quyền phát hành tiền còn là trung tâm tiền tệ, trung tâm thanh toán tổng mà các ngân hàng khác phải mở tài khoản thanh toán, làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.
2. Khái niệm ngân hàng, hoạt động ngân hàng:

Khái niệm ngân hàng và hoạt động ngân hàng xuất hiện trong một giai đoạn lịch sử nhất định, khi tiền tệ đã ra đời và nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ. Khái niệm ngân hàng và hoạt động ngân hàng chịu sự tác động bởi những biến đổi về kinh tế xã hội, tập quán và pháp luật của quốc gia trong từng giai đoạn nhất định. Cho nên, quan niệm về ngân hàng, hoạt động ngân hàng cũng rất đa dạng.

Trong tài liệu nghiên cứu và văn bản pháp luật của nhiều nước, khái niệm ngân hàng thường được dùng để chỉ hoạt động kinh doanh ngân hàng. Do vậy, các đạo luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh ngân hàng của nhiều quốc gia hầu n
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
England's FLEXIBLE PRODUCTIONNH law curriculum Chapter 1: the GENERAL ARGUMENT ABOUT the BANKING LAW in the LEGAL SYSTEM in VIETNAM I. THE CONCEPT OF BANKING ACTIVITIES, THE BANK AND THE BANKING SYSTEM STRUCTURE 1 the formation of banking activities and the Bank: History and development of the Bank associated with the formation and development of the currency. When the commodity economy development, to meet the needs of circulation, commodity exchanges, the "creative" out of the currency as a general family of horizontal object. Previously, for simple commodity economy, the Exchange stub method "barter" are the Parties apply. However, this method is only feasible when both sides at the same time there is demand for goods of each compatible. As a result, many cases of the method of "barter" became effective when the needs of exchange between the parties still have. From time to time, active circulation, commodity exchanges have increasingly developed, a method of exchanging progress than has been applied, it is the "horizontal-reviews-row". In fact, the general consideration that carries the nature of money and are viewed as the first stubs form of currency. In the first phase, horizontal wrestling price public-money is the party as real valuables such as fur, metal, shells .... later on, and the less easy to preserve, it was known to the form of money. Accordingly, the parties can together Convention of a general nature par Convention, not necessarily the real valuables such as coins, paper money. The appearance of the currency as creating favorable conditions for the sale of goods circulation. The exchange activities have increasingly developed, beyond the scope of a region, area, between certain countries. The trader can bring the goods proceed to exchange between the regions, in different areas. However, according to regional characteristics, customs, society exists in many forms of currency as a general consideration various figures. Therefore, currency conversion needs match each region, where the traders to the commodities exchange has emerged. In order to satisfy the circulation, commodity exchange continuous development of society appear first professional traders make the main horizontal object Exchange service General-currency prices. To confirm the money exchange service has been made, the injured received money conversion will release deed carries the nature of receipt on delivery, hold the assets as currency. Later, along with proprietary chemical mode do appear and the class distinction between those holding multiple assets with those scanty owns social assets in the form of a value of money acquired the contradictions about supply, demand related to the use of currency. The traders get stored in the repository property type given make the general public become invisible horizontal the intermediary entities can temporarily solve the contradiction between those who are in need of money with the remaining members are temporarily idle money earned in production process , circulation, commodity exchanges. The traders are not only purely as a service fund but also brokered payments, make the service recipient, use the money lenders are temporarily idle. The traders became the first currency trading. Many studies show that the banking profession, first appeared in Northern Italy in the middle ages. Italians call this business trades as "Banco". [1]Can see that, starting from the horizontal character generally appears in the purchase, sale, exchange of goods, the relations and business activities Exchange services directly related to the horizontal character generally has been formed. When the horizontal character of general price was fixed by the material has a high intrinsic value and there are many natural properties facilitate the preservation, broken down as well, then the horizontal character generally is considered the official currency. Along with it is the appearance of the merchant services business nature of the banking activity and the Bank in the period. The main banking and monetary operations are the result of social labor assignment in monetary circulation and function of the currency. [2]Historically, the process of development of the banking model and the type of credit has a relationship with the development process of production, circulation, commodity currency. Until the 15th century, the professional organization of business related services to serve the process of currency exchange buy sell officially was established and was known as the Bank. In this phase, the activity of the Bank still separate, isolated, not to form a system, yet have binding, interdependence. Each bank has the professional activities such as the release of the money, deposits, loans, payment services do, convert the money. The banking model was done all the services from the release of the money to the other services form a parallel way is called a banking model. By the end of the 19th century, the production and circulation of commodities higher development requires the scope and swap space must be extended even further. With a banking model, in the same country can exist at many different currencies, corresponding to the different administrative banks released. The existence at the same time the currency in the form of promissory notes of the Bank in a range of countries were hindering production, commodity circulation, leads to excess money situation, inflation. Thus, in some countries, the State has to intervene in order to remove this obstacle by only allowing some banks to satisfy a number of conditions are allowed to release new money put into circulation. The Bank does not qualify to release money in the form of promissory notes the Bank shall only be conducted in the business banking services such as deposits, loans, transfers, currency exchange ... As such, the banking operations that form the two banking system: banks and intermediary bank. This has lead to the process of converting Bank model a model into two banks. Under the two-level banking model that will have the distinction between its banks releasing money to the remaining banks are only allowed to conduct purely banking activities that are not allowed to release the money. Đến cuối thế kỷ 19, hệ quả của việc phát triển mạnh mẽ của lưu thông hàng hóa và tiền tệ và yêu cầu ngăn chặn hiện tượng lạm phát có thể gia tăng đã đòi hỏi thống nhất thị trường tiền tệ sao cho mỗi quốc gia chỉ lưu hành một đồng tiền duy nhất và nhà nước phải kiểm soát được lượng tiền tệ lưu thông. Do vậy, nhiều nước đã ban hành pháp luật quy định chỉ cho phép một ngân hàng duy nhất được phép tiến hành hoạt động phát hành tiền. Ngân hàng này được gọi là ngân hàng phát hành tiền và phân biệt với các ngân hàng trung gian còn lại không được phép phát hành tiền. Từ đặc quyền do nhà nước quy định, ngân hàng phát hành tiền ngay càng có vị trí quan trọng trong nền sản xuất, lưu thông hàng hóa cũng như tác động chi phối đến hệ thống các ngân hàng trung gian. Chính vì lẽ đó, để định hướng hoạt động sản xuất, thương mại và kiểm soát được lượng tiền tệ phát hành, lưu thông nhằm kiểm soát được hiện tượng lạm phát, nhà nước đã sử dụng quyền lực chính trị để có thể chi phối được ngân hàng phát hành tiền. Hiện tượng này bắt đầu cho quá trình quốc hữu hóa ngân hàng phát hành tiền. Từ đầu thế kỷ XX và phổ biến là từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1945), hầu hết các quốc gia đã thực hiện việc quốc hữu hóa ngân hàng phát hành tiền. Theo đó, ngân hàng này trở thành ngân hàng trung ương, ngân hàng nhà nước, có vị trí đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất lưu thông và mang bản chất là “ngân hàng của các ngân hàng”. Ngân hàng trung ương ngoài đặc quyền phát hành tiền còn là trung tâm tiền tệ, trung tâm thanh toán tổng mà các ngân hàng khác phải mở tài khoản thanh toán, làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.2. The concept of banking, banking operations:The concept of banks and banking activities appear in a certain historical period, when the currency was launched and commodity economy flourished. The concept of banks and banking activities subject to the impact by the transformation of social economy, customs and laws of the country in each stage. So, the concept of banking, banking operations are also very diverse. In research papers and legal documents of many countries, the concept of the Bank is often used to refer to the business activities of the Bank. Thus, the Act adjusts the banking business activities of many countries most n
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Anh) 2:[Sao chép]
Sao chép!
COMPONENTS PRODUCTION ANH's legal curriculum NH CHAPTER 1: GENERAL ISSUES ARGUMENTS ON THE LAW OF BANKING SYSTEM IN VIETNAM LAW I. CONCEPT OF OPERATIONS BANK, BANK AND STRUCTURE OF BANKING SYSTEM 1 The formation of banking and banks: History and development of the bank associated with the formation and development currency. When commodity economy development, to meet traffic needs, barter, people have "creative" the monetary role is evenly shared household. Previously, for the commodity economy simple, primitive method of exchange of "barter" applied by the parties. However, this method is only feasible when both sides simultaneously with the demand for goods and compatibility of each other. Therefore, many cases of method "barter" become ineffective while demand exchanged between the parties remain. Over time, circulation activities, exchange of goods is growing, a progressive exchange methods than were applied, such as the "general price level of goods-material-goods". In essence, the general price level objects that bring the essence of money and be seen as the first primitive form of currency. In the first phase, the general price level object-money fixed by the parties was carried valuables such as animal skins, metals, shells ... Draw later, to its simplicity and cost of storage, people known to form more of the money advances. Accordingly, the parties to the convention together on the general price level material nature of convention, not necessarily carry valuables such as coins, paper money ... The appearance of the currency as creating favorable conditions for the purchase and sale of commodity circulation. Activities growing exchange, beyond the range between a region, area, certain countries. The trader may carry goods conducted exchanges between regions, different areas. However, in specific regions, traditions, society exist multiple forms of currency acts as a common price across different organisms. Consequently, demand for currency conversion suited to each region, where the traders to exchange goods arose. In order to meet traffic needs, barter continuous social development appear the first trader specialized in performing the object exchange services common-currency parity. To confirm exchange service has been made, traders receive a conversion certificate issued money will bring the essence of the receipt of deposit, holding monetary assets. Later, along with privatization regime emergence of class and distinction between the holders of multiple assets with the meager possessions of social assets in the form of value that raises money contradictions in demand and supply related to the use of cash. The franchisee store in warehouse asset class given as general horizontal objects invisible become intermediate subject can temporarily resolve the conflict between those who are in need of money to members rest are temporarily idle cash earned in the process of production, circulation and exchange of goods. These traders do not merely treasury services but also to mediate payments, perform services received, used for lending the money is temporarily idle. Traders became the first currency trading. Many studies show that the banking profession first appeared in northern Italy in the medieval period. The Italians call this business as "Banco". [1] It can be seen that, starting from the general price level objects appear in the sale, barter, relationships and business exchange services related directly to the general price level character was conceived. When the general price level objects are fixed by the materials have a high intrinsic value and has many natural attributes convenient for preservation, as well as circulation split, while the general price level object formally considered money. Along with it is the appearance of the merchant services business specializing in the nature of banking operations and the bank in its infancy. It was the birth of the banking and monetary operations is a result of social division of labor in monetary circulation and implementation of monetary functions. [2] Historically, the development of the bank model and the type of credit has an intimate relationship with the development of production and circulation of commodities, currencies. Until the 15th century, the organization specializes in business-related services serving Currency exchange processes purchase officially established and was called banks. At this stage, the activities of the bank remain anonymous individual, isolated, not form a system, no ties, interdependent. Each bank has its operational activities as issuing currency, deposits, loans, payment services, money conversion. Banking model is done all the service from issuing money to other forms of service in parallel is called a level bank model. By the late 19th century, producing goods traffic higher development requires spatial scope and exchange should be expanded further. With a level bank model, in the same country can exist simultaneously many different currencies, corresponding to the various Banks released. The existence simultaneously currencies form bank notes at a national scope hinder production and circulation of goods, leading to an excess of money, inflation. Thus, in some countries, the state has intervened to remove this obstacle by allowing only some banks satisfying certain conditions will be allowed to release the money put into circulation. Banks are not qualified to issue money as bank notes, only the conduct of banking business operations such as deposit taking, lending, transfer, currency exchange ... Thus, banking activities were forming two banking system: issuing bank and intermediary bank. This led to transition banking model one tier to two-tier banking model. Accordingly a two-tier banking model will be the distinction between banks to conduct money-issuing banks with the remainder only allowed to conduct banking activities purely without permission to issue money. Go late 19th century, the consequence of strong growth of commodity circulation and monetary and requirements preventing an increase in inflation may already requires unified currency markets so that each country just saved a single currency and the state must control the amount of cash in circulation. Therefore, many countries have enacted laws regulations only allow a single bank can undertake the issuance of money. The bank called the issuing bank money and discrimination with intermediary banks are not allowed to release the money. From exclusive state regulation, banks issue money even more important position in the production and circulation of goods as well as the dominant influence on the system of the intermediary bank. Therefore, to guide the production, trade and control the amount of currency issued, circulated to control the phenomenon of inflation, the government has used political power to govern issuing bank is money. This phenomenon began the process of nationalization of banks to issue money. Since the early twentieth century and was popular after World War Second (1945), most countries have implemented the nationalization of banks to issue money. Accordingly, the bank became the central bank, state-owned banks, which are particularly important location for the production and circulation of nature as the "bank of banks". Central banks outside the privilege to issue money was the central currency, total payment center that other banks to open settlement accounts, make money services for the Government. 2. The concept of banks, banking activity: The concept of banks and banking activities appear in a certain historical period, when the currency was launched and the economy flourished goods. The concept of banks and bank operations affected by economic changes in the society, traditions and laws of the country in certain stages. Therefore, the concept of banking, banking operations are diverse. In research papers and legal documents of many countries, the banking concept often used to refer to banking operations. Therefore, the laws that apply to business operations of many national banks mostly n



























đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: