Bình đẳng trong phân bổ các nguồn lực giáo dụcTóm tắtTrong phân bổ các dịch - Bình đẳng trong phân bổ các nguồn lực giáo dụcTóm tắtTrong phân bổ các Anh làm thế nào để nói

Bình đẳng trong phân bổ các nguồn l

Bình đẳng trong phân bổ các nguồn lực giáo dục

Tóm tắt

Trong phân bổ các nguồn lực, bình đẳng thường được hiểu là sự đánh đổi với hiệu suất. Bài viết này đề cập nguyên tắc bình đẳng trong phân bổ các nguồn lực giáo dục qua hai tư tưởng chủ đạo: chủ nghĩa trọng tài và chủ nghĩa bình quân. Trong khi chủ nghĩa bình quân thiên về kết quả bình đẳng thì chủ nghĩa trọng tài thiên về hiệu suất. Qua đó, bài viết này cho thấy cách hiểu về bình đẳng khác nhau có thể dẫn đến việc phân bổ các nguồn lực một cách khác nhau; nếu bình đẳng là sự đánh đổi với hiệu suất, việc ra quyết định phân bổ nguồn lực là một vấn đề nan giải vì xã hội tiến triển theo hướng này thì xấu đi theo hướng khác. Bài viết này giúp các nhà lãnh đạo và quản lý giáo dục tiếp cận lý thuyết về bình đẳng trong mối quan hệ với hiệu suất về phân bổ nguồn lực, hiểu được mối quan hệ phức tạp của cặp phạm trù này, từ đó lý giải một cách hợp lý các quyết định phân bổ nguồn lực trong trường học, trong vùng, cũng như trong hệ thống giáo dục.

Từ khóa: bình đẳng, hiệu suất, chủ nghĩa trọng tài, chủ nghĩa bình quân

Equality in allocating educational resources

Abstract

In allocating resources, equality is often understood as a tradeoff with efficiency. This paper presents some reasoning about the equality principle in allocating educational resources through two schools of thoughts: meritocracism and egalitarianism. While egalitarianism emphasizes equal outcomes, meritocracism undersores the issue of efficiency. Predicated on this, the paper indicates that how the concept “equality” is conceptualized affects the way educational recources are allocated and, if equality and efficiency are real tradeoffs, resource allocation is a hard choice as it helps society improve this way but deteriorate another. This treatise helps educational leaders and managers approach the theories of equality in relation to efficiency and understand the complex relationship between these two concepts, from which they rationally explain their allocation decisions at school, district, and system levels.

Key words: equality, efficiency, meritocraticism, egalitarianism

Giới thiệu

​Trong các giờ giảng kinh tế học giáo dục, tác giả bài viết thường hỏi sinh viên “Vì sao các học bổng thường được trao cho người học giỏi, mà không phải là người yếu kém?”. Hầu hết trả lời rằng do người học giỏi xứng đáng hơn. Câu trả lời này tương thích với cách nhìn nhận chung của xã hội về người có tài. Trên tấm bia đầu tiên của khoa thi 1442 tại Quốc Tử Giám, Thân Nhân Trung có ghi: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà thưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn”. Chúng ta đã thảo luận nhiều về chính sách sử dụng người tài trong quá trình tăng trưởng để phát triển của đất nước. Tuy nhiên, chúng ta chưa nghĩ đến trong xã hội trọng tài, người yếu kém được đối xử như thế nào. Mối bận tâm này liên quan đến sự xung đột giữa một bên là sự hài hòa trong xã hội và bên kia là tăng trưởng kinh tế.

​Để tiến đến một xã hội hài hòa, việc phân bổ các nguồn lực cần thỏa một nguyên tắc quan trọng là tính bình đẳng (equality). Theo Irhsad (2011), bình đẳng và công bằng (equity) hai nguyên tắc cơ bản của công lý (justice) trong việc tạo ra và tái phân phối tài sản cũng như thu nhập trong xã hội. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất của nguyên tắc bình đẳng là nó đánh đổi tiêu chí hiệu suất (efficiency) (xem Putterman, Roemer, và Silvestre, 1998). Vì lẽ đó, các nhà kinh tế học giáo dục đã tốn nhiều thời gian xem xét mối quan hệ nghịch này trong bối cảnh các nguồn lực là khan hiếm (xem Checchi, 2005). Vậy theo họ, bình đẳng trong phân bổ nguồn lực giáo dục (Bùi Hiển, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, và Nguyễn Văn Tảo, 2001; Chechhi, ibid.) được hiểu như thế nào trong mối quan hệ với hiệu suất? Trước hết, bài viết trình bày hai tư tưởng cơ bản nhưng khác nhau về bình đẳng, đó là chủ nghĩa trọng tài (meritocraticism) và chủ nghĩa bình quân (egalitarianism). Phần này cho thấy, cách hiểu về bình đẳng khác nhau sẽ dẫn đến việc phân bổ các nguồn lực một cách khác nhau. Ở phần tiếp theo, bài viết đề cập các vấn đề trọng yếu khi thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ nghịch nhưng không thể tách rời với tiêu chí hiệu suất. Phần này cho rằng quyết định phân bổ các nguồn lực trong giáo dục nói riêng và trong xã hội nói chung là một bài toán khó. Như thường lệ, phần còn lại của bài viết là kết luận.

Bình đẳng trong phân bổ các nguồn lực giáo dục

​Trong lý thuyết kinh tế học giáo dục, mặc dù đều lấy nguyên tắc bình đẳng làm trọng, cách giải thích của chủ nghĩa trọng tài và chủ nghĩa bình quân về khái niệm chuẩn tắc này lại khác nhau. Những người theo hai tư tưởng này có điểm chung là muốn tháo bỏ những bất công trong xã hội về vật chất, quyền lực, địa vị, danh tiếng, (Cook và Hegtvedt, 1983; Anderson, 1999; Buchanan, 2005), v.v. Mục đích cuối cùng của sự bình đẳng, theo họ, là các cá nhân trong xã hội đều có cơ hội cho một cuộc sống hợp lý (Buchanan, ibid.). Tuy đều hướng tới sự bình đẳng, hai trường phái này có những lý giải khác nhau. Cơ sở để thực hiện nguyên tắc bình đẳng của chủ nghĩa trọng tài là sự xứng đáng (merit) của con người gồm năng lực (IQ) và sự cố gắng (Souto-Otero, ibid.; xem Mitchell, Tetlock, Mellers, và Ordónẽz, 1993), trong khi cơ sở để thực hiện bình đẳng của chủ nghĩa bình quân là quyền con người (Buchanan, 2005; xem Arneson, 2009).



​Hình 1. Bình đẳng theo chủ nghĩa trọng tài (Nicase, 2008)

​Chủ nghĩa trọng tài xác định tính bình đẳng theo ba nguyên tắc. Nguyên tắc thứ nhất là bình đẳng về cơ hội dựa trên sự xứng đáng. Trong giáo dục, thi kiểm tra IQ là hoạt động sát hạch phổ biến nhất nhằm thỏa mãn nguyên tắc bình đằng về cơ hội. Nguyên tắc thứ hai, theo Nicase (2008), là sự trượt dài của nguyên tắc thứ nhất: bình đẳng về đối xử hay bình đẳng về quá trình. Theo đó, mọi người phải được đối xử bình đẳng dựa vào kết quả sát hạch. Những người theo tư tưởng này chấp nhận đầu tư nguồn lực nhiều hơn cho những cá nhân nổi trội hơn. Họ lý luận rằng không phải người nổi trội hơn là được ưu tiên hơn, mà vì những người này trong tương lai sẽ đóng góp cho xã hội nhiều hơn. Dựa trên lý thuyết vốn con người của Becker (1964), Checchi (2005) cho rằng những người nổi trội hơn sẽ tích lũy nhiều hơn vốn con người trên cùng một đơn vị thời gian. Chính vì có nhiều vốn con người hơn, họ sẽ làm việc với năng suất cao hơn, và do đó có mức thu nhập cao hơn những đối tượng khác (Becker, ibid.; Mincer, 1974; Wößmann, 2003; Heywood và Wei, 2004; Woodhall, 2004). Khi có thu nhập cao hơn, họ sẽ đóng thuế thu nhập nhiều hơn (xem Checchi, ibid.). Nguyên tắc cuối cùng là kết quả logic của hai nguyên tắc trên. Nếu các cá nhân được cơ hội bình đẳng và đối xử bình đẳng dựa trên sự xứng đáng, tức năng lực và cố gắng, thì kết quả dù giống nhau hay khác nhau cũng sẽ bình đẳng.

​Hình 1 minh họa bốn học sinh A, B, C, và D với năng lực (chiếu theo trục nằm ngang) và thành tích học tập (chiếu theo trục thẳng đứng) khác nhau. Theo chủ nghĩa trọng tài, mỗi cá nhân đều có một giới hạn nhất định về năng lực được thể hiện trong học tập và họ gọi đây là “trần học vấn”. Dựa vào đó, những người theo tư tưởng này lý giải rằng học sinh D có năng lực trội hơn học sinh A và học sinh B. Chính vì vậy, nếu được đầu tư nguồn lực nhiều hơn, học sinh D sau này sẽ tích lũy nhiều vốn con người hơn học sinh A và học sinh B (chiếu theo “trần học vấn”). Một điểm đáng lưu ý là theo chủ nghĩa trọng tài, dù học sinh A có thành tích học tập cao hơn học sinh D, học sinh A do có “trần học vấn” thấp hơn nên nguồn lực nếu được phân bổ cho đối tượng này không thỏa tiêu chí hiệu suất.

​Những người theo chủ nghĩa bình quân cho rằng bình đẳng là tuyệt đối, và mọi người đều có những quyền như nhau trong tiếp cận các nguồn lực. Nếu hiểu bình đẳng theo khía cạnh tái phân phối nguồn lực như Irhsad (2001) định nghĩa, sự bình đẳng của chủ nghĩa bình quân dựa trên hai nguyên tắc đạo đức đó là những người gặp vận rủi (không đáng có) nên được bù đắp và việc bù đắp nên xuất phát từ những người gặp may mắn (không đáng có) (Anderson, 1999; xem Putterman, Roemer, và Silvestre, 1998). Theo Anderson (ibid.), đây là một trong những lý thuyết nổi bật nhất của chủ nghĩa bình quân. Ngoài ra, chủ nghĩa này nhấn mạnh đến tính bình đẳng về kết quả trong khi những người trọng tài năng bỏ ngỏ sự khác nhau thực chất về kết quả (vì họ quan tâm nhiều hơn đến hiệu suất). Kết quả công bằng sẽ có tác dụng làm cho khoảng cách xã hội thu hẹp. Chính vì thế, trong giáo dục, nguồn lực giáo dục cần phải được ưu tiên cho các cá nhân xuất thân từ gia đình nghèo hoặc có thành tích học tập yếu kém. Plowden (1967) gọi đây là sự phân biệt tích cực. Nó giúp các cá nhân có điều kiện kéo dài thời gian đi học để tích lũy nhiều vốn con người hơn, làm cho tổng lượng vốn con người trong xã hội tăng lên (xem Becker, 1993). ​​



​Hình 2. Bình đẳng theo chủ nghĩa bình quân (Nicase, 2008)

​Cùng bố
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Equality in the allocation of educational resourcesSummaryIn the allocation of resources, equality is often understood as a trade-off with the performance. This article deals with the principle of equality in the allocation of educational resources through two main ideologies: communism and nationalism on average. While the average democratic equal results favoring the Emperor arbitrators nationalism in terms of performance. Hence, this article shows how to understand the different equality might lead to the allocation of resources in a different way; If equality is a trade-off with the performance, decision making resource allocation is a problem for social progress in this direction is bad going the other direction. This article helps leaders and managers access to education theory of equality in relation with the performance of resource allocation, to understand the complex relationship of this category folder, from which a justification of the decision to allocate resources in schools , in the region, as well as in the education system.Keywords: equal, performance, that arbitration, that the averageEquality in allocating educational resourcesAbstractIn allocating resources, equality is often understood as a tradeoff with efficiency. This paper presents some reasoning about the equality principle in allocating educational resources through two schools of thoughts: meritocracism and egalitarianism. While egalitarianism emphasizes equal outcomes, meritocracism undersores the issue of efficiency. Predicated on this, the paper indicates that how the concept of "equality" is conceptualized affects the way educational recources are allocated and, if equality and efficiency are real tradeoffs, resource allocation is a hard choice as it helps society improve this way but deteriorate another. This treatise helps educational leaders and managers approach the theories of equality in relation to efficiency and understand the complex relationship between these two concepts, from which they rationally explain their allocation decisions at school, district, and system levels.Key words: equality, efficiency, meritocraticism, egalitarianismIntroductionIn the hours of lecture in economics education, article writers often ask students, "why scholarships are typically awarded to the students, which is not the weak?". Most replied that due to the more deserving students. This answer is compatible with the General view of society towards people with financial assets. On the Department's first contest 1442 at the Guozijian, The Relatives have stated: "Sage is the head of national gas resources. Rich gas resources, strong country like that thưng Thinh, Nguyen also speculate that weaker countries that vile ". We have discussed many of the policy using the Member in the course of growth to the country's development. However, we have not thought of in social arbiter, poor people are treated like. This concerns related to the conflict between the harmony in society and on the other side is economic growth.​Để tiến đến một xã hội hài hòa, việc phân bổ các nguồn lực cần thỏa một nguyên tắc quan trọng là tính bình đẳng (equality). Theo Irhsad (2011), bình đẳng và công bằng (equity) hai nguyên tắc cơ bản của công lý (justice) trong việc tạo ra và tái phân phối tài sản cũng như thu nhập trong xã hội. Tuy nhiên, vấn đề lớn nhất của nguyên tắc bình đẳng là nó đánh đổi tiêu chí hiệu suất (efficiency) (xem Putterman, Roemer, và Silvestre, 1998). Vì lẽ đó, các nhà kinh tế học giáo dục đã tốn nhiều thời gian xem xét mối quan hệ nghịch này trong bối cảnh các nguồn lực là khan hiếm (xem Checchi, 2005). Vậy theo họ, bình đẳng trong phân bổ nguồn lực giáo dục (Bùi Hiển, Nguyễn Văn Giao, Nguyễn Hữu Quỳnh, và Nguyễn Văn Tảo, 2001; Chechhi, ibid.) được hiểu như thế nào trong mối quan hệ với hiệu suất? Trước hết, bài viết trình bày hai tư tưởng cơ bản nhưng khác nhau về bình đẳng, đó là chủ nghĩa trọng tài (meritocraticism) và chủ nghĩa bình quân (egalitarianism). Phần này cho thấy, cách hiểu về bình đẳng khác nhau sẽ dẫn đến việc phân bổ các nguồn lực một cách khác nhau. Ở phần tiếp theo, bài viết đề cập các vấn đề trọng yếu khi thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ nghịch nhưng không thể tách rời với tiêu chí hiệu suất. Phần này cho rằng quyết định phân bổ các nguồn lực trong giáo dục nói riêng và trong xã hội nói chung là một bài toán khó. Như thường lệ, phần còn lại của bài viết là kết luận.Equality in the allocation of educational resourcesIn the theory of economics education, although both took the principle of equality as a matter of interpretation, arbitration and on average this normative concept differs. The followers of this ideology both have in common is the wish to remove the unfairness in society about the material, power, status, fame, (Cook and Hegtvedt, 1983; Anderson, 1999; Buchanan, 2005), and so the ultimate goal of equality, according to them, is the individual in the society has the chance for a rational life (Buchanan, ibid.). While both towards equality, the two schools have different reasons. The basis for implementing the principle of equality of the arbitration is the worthy (merit) of humans include the ability (IQ) and attempts (Souto-Otero, ibid.; see Mitchell, Tetlock, Mellers, & Ordónẽz, 1993), while the base to implement equality of human rights is the average (Buchanan, 2005; see Arneson , 2009).Fig. 1. Equality in that arbitration (Nicase, 2008)​Chủ nghĩa trọng tài xác định tính bình đẳng theo ba nguyên tắc. Nguyên tắc thứ nhất là bình đẳng về cơ hội dựa trên sự xứng đáng. Trong giáo dục, thi kiểm tra IQ là hoạt động sát hạch phổ biến nhất nhằm thỏa mãn nguyên tắc bình đằng về cơ hội. Nguyên tắc thứ hai, theo Nicase (2008), là sự trượt dài của nguyên tắc thứ nhất: bình đẳng về đối xử hay bình đẳng về quá trình. Theo đó, mọi người phải được đối xử bình đẳng dựa vào kết quả sát hạch. Những người theo tư tưởng này chấp nhận đầu tư nguồn lực nhiều hơn cho những cá nhân nổi trội hơn. Họ lý luận rằng không phải người nổi trội hơn là được ưu tiên hơn, mà vì những người này trong tương lai sẽ đóng góp cho xã hội nhiều hơn. Dựa trên lý thuyết vốn con người của Becker (1964), Checchi (2005) cho rằng những người nổi trội hơn sẽ tích lũy nhiều hơn vốn con người trên cùng một đơn vị thời gian. Chính vì có nhiều vốn con người hơn, họ sẽ làm việc với năng suất cao hơn, và do đó có mức thu nhập cao hơn những đối tượng khác (Becker, ibid.; Mincer, 1974; Wößmann, 2003; Heywood và Wei, 2004; Woodhall, 2004). Khi có thu nhập cao hơn, họ sẽ đóng thuế thu nhập nhiều hơn (xem Checchi, ibid.). Nguyên tắc cuối cùng là kết quả logic của hai nguyên tắc trên. Nếu các cá nhân được cơ hội bình đẳng và đối xử bình đẳng dựa trên sự xứng đáng, tức năng lực và cố gắng, thì kết quả dù giống nhau hay khác nhau cũng sẽ bình đẳng.Figure 1 illustrates four students A, B, C, and D with the capacity (under horizontal axis) and academic achievement (under vertical axis) are different. According to that arbitration, each individual has a certain limit of capacity is expressed in learning and they call this "academic Chen". Based on that, the followers of this ideology explains that the student D has the capacity to outgrow the student A and student B. Therefore, if invested more resources, student D following this will cumulative more human capital than the student A and student B (under "academic Chen"). A point worth noting is that according to that arbitration, although A higher learning achievements of students D, A student due to "academic Chen" should lower if resources allocated to this object did not satisfy the performance criteria.​Những người theo chủ nghĩa bình quân cho rằng bình đẳng là tuyệt đối, và mọi người đều có những quyền như nhau trong tiếp cận các nguồn lực. Nếu hiểu bình đẳng theo khía cạnh tái phân phối nguồn lực như Irhsad (2001) định nghĩa, sự bình đẳng của chủ nghĩa bình quân dựa trên hai nguyên tắc đạo đức đó là những người gặp vận rủi (không đáng có) nên được bù đắp và việc bù đắp nên xuất phát từ những người gặp may mắn (không đáng có) (Anderson, 1999; xem Putterman, Roemer, và Silvestre, 1998). Theo Anderson (ibid.), đây là một trong những lý thuyết nổi bật nhất của chủ nghĩa bình quân. Ngoài ra, chủ nghĩa này nhấn mạnh đến tính bình đẳng về kết quả trong khi những người trọng tài năng bỏ ngỏ sự khác nhau thực chất về kết quả (vì họ quan tâm nhiều hơn đến hiệu suất). Kết quả công bằng sẽ có tác dụng làm cho khoảng cách xã hội thu hẹp. Chính vì thế, trong giáo dục, nguồn lực giáo dục cần phải được ưu tiên cho các cá nhân xuất thân từ gia đình nghèo hoặc có thành tích học tập yếu kém. Plowden (1967) gọi đây là sự phân biệt tích cực. Nó giúp các cá nhân có điều kiện kéo dài thời gian đi học để tích lũy nhiều vốn con người hơn, làm cho tổng lượng vốn con người trong xã hội tăng lên (xem Becker, 1993). ​​​Hình 2. Bình đẳng theo chủ nghĩa bình quân (Nicase, 2008)​Cùng bố
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: