2011 年 08 月 05 日, 星期五, 22:16 (GMT+7)Hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc - sự kiện có ý nghĩa lịch sử đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Biên giới quốc gia (BGQG) do con người tạo ra trên cơ sở tôn trọng các yếu tố về lịch sử, dân tộc, địa lý và nhiều yếu tố khác có liên quan giữa hai nước. BGQG được coi là cơ sở pháp lý, đồng thời là một trong những nền tảng vật chất, tinh thần để mỗi quốc gia tồn tại và phát triển. Vì vậy, xác định một đường biên giới rõ ràng, minh định, phù hợp với thực tiễn luật pháp quốc tế là vấn đề cực kỳ hệ trọng đối với bất cứ một quốc gia nào. Song do nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan, nên việc xác định BGQG giữa các nước trên thế giới thường rất phức tạp. BGQG giữa Việt Nam và Trung Quốc, vì thế, cũng không tránh khỏi thực tiễn có tính phổ biến đó.
Lịch sử cho thấy, dựa vào tập quán, lối sống, ngôn ngữ của các dân tộc ở khu vực biên giới, đường biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc đã được hình thành ngay từ thế kỷ thứ X. Mặc dù đường biên giới đó chỉ có tính tương đối, nhưng nó được coi là cơ sở ban đầu rất quan trọng cho việc xác định một đường biên giới rõ ràng hơn sau này. Đến nửa cuối thế kỷ thứ XIX, thực dân Pháp (khi đó đang áp đặt chế độ thuộc địa trên đất nước ta) và triều đình nhà Thanh, Trung Quốc, đã ký các công ước về biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đó là năm 1887, hai bên ký Công ước hoạch định biên giới giữa Bắc Kỳ với Trung Quốc (gọi tắt là Công ước 1887); năm 1895, hai bên tiếp tục ký Công ước bổ sung Công ước hoạch định biên giới (gọi tắt là Công ước 1895). Đường biên giới do hai Công ước xác lập về cơ bản là dựa vào đường biên giới đã được hình thành và tồn tại từ lâu đời giữa hai nước; trên cơ sở đó, hai bên tiến hành phân giới và cắm được 341 cột mốc trên thực địa. Tuy vậy, do phương tiện kỹ thuật còn kém hiện đại, nên việc phân giới, cắm mốc lần này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định. Chẳng hạn, việc phân giới không được xác định bằng lưới tọa độ; các cột mốc chưa bảo đảm tính kiên cố, bố trí lại thưa và thiếu sự mô tả chính xác. Đặc biệt, nhiều đoạn biên giới không được mô tả rõ ràng và bản đồ đính kèm thể hiện rất sơ lược. Những đặc điểm đó, cùng với những yếu tố về môi trường và các biến cố lịch sử trải qua hơn một trăm năm, đã làm cho nhiều cột mốc bị hư hỏng, thậm chí bị mất hoặc bị xê dịch so với vị trí đã vẽ trên bản đồ. Những đoạn không có cột mốc lại càng khó xác định đường biên giới vì địa hình, địa vật đã có nhiều thay đổi. Đây chính là các yếu tố khiến hai bên có nhận thức không thống nhất về đường biên giới ở một số khu vực, làm cho công tác quản lý, bảo vệ biên giới gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp, thậm chí, có thời điểm còn xảy ra tranh chấp về chủ quyền, nhất là ở những đoạn biên giới chưa được xác định rõ ràng.
Tình hình trên cho thấy, việc phải xác định lại đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc là rất cần thiết. Bởi lẽ, ranh giới phân chia chủ quyền giữa hai nước chỉ có ý nghĩa đầy đủ khi đường biên giới được phân định rõ ràng, được đánh dấu bằng một hệ thống mốc giới cụ thể trên thực địa. Nếu chưa tiến hành phân giới, cắm mốc, lực lượng chức năng hai bên sẽ không có cơ sở đầy đủ để nhận biết đường biên giới, phạm vi lãnh thổ của mỗi quốc gia; do đó, gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí bất đồng trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới. Mặt khác, chỉ khi có được một đường biên giới rõ ràng, dễ nhận biết thì nhân dân hai bên ở khu vực biên giới mới hiểu được khu vực nào mình được phép định cư, làm ăn, sinh sống. Nói cách khác, phân giới cắm mốc không chỉ là các công việc mang tính kỹ thuật mà còn là công việc mang tính pháp lý, chính trị, xã hội, nhằm bảo đảm cho hai bên thực hiện hiệp định về biên giới có hiệu quả. Nhận thức được vấn đề đó, Việt Nam và Trung Quốc đã chủ động đàm phán để giải quyết các vấn đề về biên giới (đàm phán lần đầu tiên vào tháng 8-1974, lần thứ hai vào tháng 10-1977, lần thứ ba vào tháng 4-1979). Đặc biệt, sau khi bình thường hoá quan hệ, việc đàm phán về biên giới đất liền giữa hai nước đã đi vào những vấn đề cụ thể hơn, với quyết tâm cao hơn của Đảng và Chính phủ hai nước. Tháng 10-1993, hai bên đã ký Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nội dung chính của Thoả thuận này là: hai bên đồng ý lấy Công ước 1887, Công ước 1895 và các văn kiện, bản đồ kèm theo làm căn cứ xác định lại đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc; hai bên sử dụng bản đồ địa hình khu vực biên giới tỷ lệ 1/50.000 để vẽ đường biên giới theo chủ trương của mình và sớm trao đổi cho nhau; đối với những đoạn sông, suối (khoảng 400 km) thì giải quyết theo thực tiễn luật pháp quốc tế.
Sau 7 năm đàm phán tại nhiều cấp (cấp Chính phủ, cấp chuyên viên, cấp kỹ thuật…), ngày 30-12-1999, tại Hà Nội, Hiệp ước về biên giới đất liền giữa nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã được ký kết (gọi tắt là Hiệp ước 1999). Theo Hiệp ước, hướng đi của đường biên giới được mô tả từ Tây sang Đông, có bản đồ tỷ lệ 1/50.000 đính kèm; hai bên thống nhất giải quyết 289 khu vực trên đường biên giới có nhận thức khác nhau theo con số cụ thể: khoảng 114,9 km2 thuộc về Việt Nam, và khoảng 117,2 km2 thuộc về Trung Quốc; đường biên giới vẽ lại được thể hiện bằng lời văn và đường đỏ trên bản đồ sẽ được đánh dấu bằng hệ thống mốc giới hiện đại, bền vững, gọi tắt là phân giới cắm mốc.
Sau khi Hiệp ước 1999 có hiệu lực (tháng 7-2000), Việt Nam và Trung Quốc thành lập 12 nhóm liên hợp, tiến hành phân giới cắm mốc theo phương pháp song phương (cùng nhau phân giới cắm mốc trên thực địa). Quá trình phân giới cắm mốc có thể chia thành 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1 (2001-2003): ngày 27-12-2001, hai bên cắm mốc quốc giới đầu tiên tại cửa khẩu quốc tế Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam) và Đông Hưng (tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc). Sau đó, hai bên thoả thuận phân giới cắm mốc theo hình thức "cuốn chiếu" từ Tây sang Đông, làm đến đâu xong đến đó, dứt điểm từng đoạn. Tuy vậy, do hai bên còn một số nhận thức khác nhau về cách thức triển khai, nên trong giai đoạn này chỉ xác định được 106 vị trí mốc và cắm được 89 mốc.
Giai đoạn 2 (2004-2006): hai bên tiếp tục đàm phán, thống nhất cách làm là "dễ trước khó sau", khi gặp vướng mắc thì tạm gác lại để chuyển sang khu vực tiếp theo. Giai đoạn này hai bên đã xác định được 276 mốc.
Giai đoạn 3 (2007-2008): do nhiều vị trí mốc giới chưa xác định được ở các năm trước dồn lại (đều ở các khu vực nhạy cảm, có lịch sử tranh chấp lâu đời) nên hai bên lại phải tiếp tục đàm phán, qua đó lấy nguyên tắc "cả gói", bảo đảm cân bằng về lợi ích để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng. Mặc dù vậy, phải đến vòng đàm phán cuối cùng, những giây phút cuối cùng, hai bên mới thống nhất được cách giải quyết ở khu vực thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân. Đối với khu vực thác Bản Giốc, hai bên thỏa thuận đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong, đến điểm giữa của mặt thác chính, sau đó đến dòng chảy chính trên sông Quây Sơn. Theo thỏa thuận, Việt Nam được hơn 2/3 khu vực thác Bản Giốc, 1/3 còn lại là của Trung Quốc. Hai bên còn thỏa thuận không xây dựng các công trình nhân tạo tại khu vực thác để bảo đảm cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái; đồng thời, nhất trí xem xét về việc cùng hợp tác để khai thác tiềm năng du lịch ở khu vực này. Còn đối với khu vực cửa sông Bắc Luân, hai bên đã đi đến thống nhất là: bãi Tục Lãm 3/4 thuộc Việt Nam, 1/4 thuộc Trung Quốc; bãi Dậu Gót 1/3 thuộc Việt Nam, 2/3 thuộc Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc cũng đồng ý thiết lập hệ thống giao thông thủy tự do cho nhân dân địa phương hai bên biên giới sử dụng luồng 2 bên của bãi Tục Lãm và bãi Dậu Gót. Như vậy, hai khu vực được coi là nhạy cảm nhất, cuối cùng cũng được ta và bạn giải quyết trên cơ sở nhân nhượng lẫn nhau, có lý, có tình.
Cuối cùng, ngày 31-12-2008, Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ của Việt Nam và Trưởng đoàn đàm phán cấp Chính phủ của Trung Quốc cùng nhau ra Tuyên bố về việc hoàn thành công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc đúng thời hạn mà lãnh đạo cấp cao của hai Đảng, hai Nhà nước đã đề ra. Sau 8 năm vừa đàm phán vừa thực hiện phân giới cắm mốc, hai bên đã phân giới xong toàn bộ khoảng 1.400 km đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc, cắm 1.971 cột mốc (trong đó có 1.549 cột mốc chính và 422 cột mốc phụ). Đường biên giới đất liền Việt Nam – Trung Quốc được xác định và mô tả chi tiết đúng với tình hình thực tế, phù hợp với lời văn Hiệp ước 1999; mức độ cột mốc dày đặc, dễ nhận biết, bảo đảm tính chính xác và tính bền vững, có giá trị và độ tin cậy cao cả về mặt kỹ thuật cũng như về tính pháp lý. Nói cách khác, kế
2011 年 8 月 05 日、 日星期五,22:16 (GMT + 7) 完成土地划分边界在越南和中国事件之间具有历史意义,为建造业和防御国家边界 (BGQG) 人类尊重历史、 种族、 地理和其他相关的因素,两国之间的元素的基础上创造的。BGQG 被考虑作为法律依据,并且是背景材料,对每一个民族赖以生存和成长的精神之一。因此,定义明确的边界,证据,符合国际法律实践是非常重要的系统问题与任何一个国家。首歌由于许多因素,客观和主观,应测定 BGQG 之间的世界各国往往非常复杂。BGQG 越南和中国,因此,也难免有做法,受欢迎程度。历史表明,基于习俗、 生活方式、 在边境地区民族语言,越南与中国陆地边界已经形成了从 X 世纪虽然边界线,也只是相对的但它被认为是在一垒稍后更清楚的界线测定非常重要。到十九世纪下半叶,法国殖民者 (当它强加在国家的殖民政权) 和清代的中国,签署了公约 》 在越南和中国之间的边界上。这是在 1887 年,双方签署了边界协定 (简称公约 》,1887年); 中国北方国家之间1895 年,双方继续签署公约补充公约 》 计划 (简称公约 1895年) 的边框。由于这两项公约的边界线建立基本上基于边界已形成和存在之间的两个国家;在此基础上双方进行边界和插头是 341 地标。然而,由于技术手段不应现代边界,划定这次还透露存在一定的局限性。例如,边界不确定由网格坐标;地标尚未保证组成,重新排列女士和缺乏准确的描述。尤其是,边界许多地段不是清楚地描述和地图连接物理配置文件。这些特点,以及环境因素和历史事件的一百多年,取得许多地标损坏、 丢失或甚至移动阵地被绘制在地图上。这一段有没有地标作为困难来确定其边境由于地形,发生了许多变化。这是确切的因素,使双方都意识到的边框线,在一些地区,使保护管理的边界,遇到了许多困难,复杂,甚至,一度还发生纠纷在主权上,特别是在边界有没有明确的界定。Tình hình trên cho thấy, việc phải xác định lại đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc là rất cần thiết. Bởi lẽ, ranh giới phân chia chủ quyền giữa hai nước chỉ có ý nghĩa đầy đủ khi đường biên giới được phân định rõ ràng, được đánh dấu bằng một hệ thống mốc giới cụ thể trên thực địa. Nếu chưa tiến hành phân giới, cắm mốc, lực lượng chức năng hai bên sẽ không có cơ sở đầy đủ để nhận biết đường biên giới, phạm vi lãnh thổ của mỗi quốc gia; do đó, gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí bất đồng trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới. Mặt khác, chỉ khi có được một đường biên giới rõ ràng, dễ nhận biết thì nhân dân hai bên ở khu vực biên giới mới hiểu được khu vực nào mình được phép định cư, làm ăn, sinh sống. Nói cách khác, phân giới cắm mốc không chỉ là các công việc mang tính kỹ thuật mà còn là công việc mang tính pháp lý, chính trị, xã hội, nhằm bảo đảm cho hai bên thực hiện hiệp định về biên giới có hiệu quả. Nhận thức được vấn đề đó, Việt Nam và Trung Quốc đã chủ động đàm phán để giải quyết các vấn đề về biên giới (đàm phán lần đầu tiên vào tháng 8-1974, lần thứ hai vào tháng 10-1977, lần thứ ba vào tháng 4-1979). Đặc biệt, sau khi bình thường hoá quan hệ, việc đàm phán về biên giới đất liền giữa hai nước đã đi vào những vấn đề cụ thể hơn, với quyết tâm cao hơn của Đảng và Chính phủ hai nước. Tháng 10-1993, hai bên đã ký Thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản để giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Nội dung chính của Thoả thuận này là: hai bên đồng ý lấy Công ước 1887, Công ước 1895 và các văn kiện, bản đồ kèm theo làm căn cứ xác định lại đường biên giới Việt Nam – Trung Quốc; hai bên sử dụng bản đồ địa hình khu vực biên giới tỷ lệ 1/50.000 để vẽ đường biên giới theo chủ trương của mình và sớm trao đổi cho nhau; đối với những đoạn sông, suối (khoảng 400 km) thì giải quyết theo thực tiễn luật pháp quốc tế.经过七年的谈判在各级 (专家级、 政府赠款、 技术水平......),在 1999/11/30,在河内,越南社会主义共和国和中华人民共和国的中国陆地边界条约签订了 (条约)。根据该条约,边框线的方向是描述从西到东,还有地图 1/50,000 的附件;双方统一解决 289 接壤的地区有不同的看法,根据具体数字: 约 114.9 km2 属于越南,以及约 117.2 km2 属于中国;抽签回显示的文本,将由系统可持续的、 现代的地标,简称分界标记在地图上的红线。经过 1999年条约生效 (2000 年 7 月),越南和中国建立了 12 的联合小组,进行双边途径下的分界 (一起实地标定)。标定的过程可以分为 3 个阶段。第一阶段 (2001年-2003 年): 2001/11/27 上的分界在旺角 Cai 国际关闸 (越南广宁省)、 东兴 (广西省) 世界第一。然后,关于协定 》 的形式"千足虫",从西到东,分界在哪里去做,每一段的结束点。然而,因为双方也是如何部署一些不同的看法,应该在现阶段只确定模具和插头是 89 106 位置。第二阶段 (2004年-2006 年): 双方继续谈判、 统一的制作方法"轻松过困难后",当有问题然后再去将移动到下一个区域。在这一阶段双方被确定为 280 模具。Giai đoạn 3 (2007-2008): do nhiều vị trí mốc giới chưa xác định được ở các năm trước dồn lại (đều ở các khu vực nhạy cảm, có lịch sử tranh chấp lâu đời) nên hai bên lại phải tiếp tục đàm phán, qua đó lấy nguyên tắc "cả gói", bảo đảm cân bằng về lợi ích để giải quyết các vấn đề còn tồn đọng. Mặc dù vậy, phải đến vòng đàm phán cuối cùng, những giây phút cuối cùng, hai bên mới thống nhất được cách giải quyết ở khu vực thác Bản Giốc và cửa sông Bắc Luân. Đối với khu vực thác Bản Giốc, hai bên thỏa thuận đường biên giới đi từ mốc 53 cũ, qua cồn Pò Thoong, đến điểm giữa của mặt thác chính, sau đó đến dòng chảy chính trên sông Quây Sơn. Theo thỏa thuận, Việt Nam được hơn 2/3 khu vực thác Bản Giốc, 1/3 còn lại là của Trung Quốc. Hai bên còn thỏa thuận không xây dựng các công trình nhân tạo tại khu vực thác để bảo đảm cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái; đồng thời, nhất trí xem xét về việc cùng hợp tác để khai thác tiềm năng du lịch ở khu vực này. Còn đối với khu vực cửa sông Bắc Luân, hai bên đã đi đến thống nhất là: bãi Tục Lãm 3/4 thuộc Việt Nam, 1/4 thuộc Trung Quốc; bãi Dậu Gót 1/3 thuộc Việt Nam, 2/3 thuộc Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc cũng đồng ý thiết lập hệ thống giao thông thủy tự do cho nhân dân địa phương hai bên biên giới sử dụng luồng 2 bên của bãi Tục Lãm và bãi Dậu Gót. Như vậy, hai khu vực được coi là nhạy cảm nhất, cuối cùng cũng được ta và bạn giải quyết trên cơ sở nhân nhượng lẫn nhau, có lý, có tình.最后,在 2008/12/31,越南和政府首席谈判代表的中国政府首席谈判代表发表联合声明关于越南中国登陆时间两个缔约方,两个国家的高级领导人的边境划界的工作完成。8 年的谈判只是作出划界后,双方已经完成长达 1400 公里的中越边境的整个边界,插头 1,971 地标 (包括主要的里程碑和 1,549 422 额外里程碑)。越南-中国土地是确定和真实的实际情况,符合 1999年条约; 案文的详细描述密集的里程碑,更易于识别,在技术上和法律确保准确性和可持续性、 价值和可靠性这两个级别。换句话说,设计
đang được dịch, vui lòng đợi..