Thế giới xung quanh ta tồn tại biết bao điều kỳ thú. Chúng luôn tồn tạ dịch - Thế giới xung quanh ta tồn tại biết bao điều kỳ thú. Chúng luôn tồn tạ Anh làm thế nào để nói

Thế giới xung quanh ta tồn tại biết

Thế giới xung quanh ta tồn tại biết bao điều kỳ thú. Chúng luôn tồn tại song song với nhau và song song với cuộc sống của chúng ta. Cuộc sống của chúng ta vô cùng đa dạng và phong phú, khiến chúng ta khó có thể hiểu và giải thích hết được tất cả những gì đang xảy ra xung quanh. Đó chính là sự đa dạng sinh học. Chính vì điều đó mà chúng ta phải cần đến nhiều kiến thức từ nhiều môn học khác nhau nới có thể hiểu được một cách rõ ràng hơn, sâu sắc hơn các vấn đề ấy rồi từ đó có những biện pháp đúng đắn, tối ưu nhất giải quyết chúng.
Đa dạng sinh học là thuật ngữ thể hiện tính đa dạng của các cá thể sống, loài và quần thể, tính biến động di truyền giữa chúng và tất cả sự tập hợp phức tạp của chúng thành các quần xã và hệ sinh thái. Đa dạng sinh học được thể hiện ở ba cấp độ: Đa dạng di truyền, đa dạng về loài và đa dạng về hệ sinh thái. "Mặc dù có nhiều nỗ lực trong công tác quản lý đa dạng sinh học trong thời gian qua, nhưng đa dạng sinh học của Việt Nam vẫn đang trên đà suy thoái", ông Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng định như vậy tại lễ mít tinh kỷ niệm Ngày quốc tế Đa dạng sinh học 2013. Việt Nam được biết đến như là một trung tâm đa dạng sinh học của thê giới, với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú.
Trong khi đa dạng di truyền được cho là sự khác biệt của các đặc tính di truyền giữa các xuất xứ, quần thể và giữa các cá thể trong một loài hay một quần thể thì đa dạng loài chỉ mức độ phong phú về số lượng loài hoặc loài phụ trên quả đất, ở một vùng địa lý, trong một quốc gia hay trong một sinh cảnh nào đó. Đa dạng loài là đa dạng về số lượng, về loài được tìm thấy tại một khu vực nhất định. Ngoài ra, nó còn thể hiện sự khác biệt trong một hay nhiều quần thể của một loài cũng như đối với quần thể của các loài khác. Ước tính đến nay, trên thế giới đã có khoảng 1,7 triệu loài được xác định. Nhưng thực chất có đến 12,5 triệu loài trên Trái Đất. Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP), gần 900 loài đang có nguy cơ tuyệt chủng và có ít nhất 10 loài đã tuyệt chủng ở Việt Nam, trong đó có loài tê giác Java.

Đầu tiên, ta nói đến giới thực vật. Giới thực vật rất đa dạng về loài, cấu tạo cơ thể và các hoạt động sống thích nghi với các môi trường sống khác nhau. Theo thống ke có khoảng 300 nghìn loài thực vật trên thế giới. Riêng ở Việt Nam đã có khoảng 15 nghìn loài, trong đó có khoảng 2300 loài có ý nghĩa kinh tế. Rừng ở Việt Nam phủ gần 50% diện tích với hệ thực vật vô cùng đa dạng, phong phú.
Thế giới động vật cũng đa dạng không kém. Số lượng các loài động vật sinh sống trên Trái Đất đang giảm nhanh, đặc biệt là động vật có vú khi hiện khoảng 1/5 các loài động vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. động vật rừng đã góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước và là cơ sở quan trọng cho bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững. Song, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nguồn tài nguyên này đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng, đang có nguy cơ bị tuyệt chủng hoặc suy giảm số lượng một cách đáng lo ngại.
Về đa dạng hệ sinh thái, hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa và phân loại thống nhất nào ở mức toàn cầu. Đa dạng hệ sinh thái thường được đánh giá thông qua tính đa dạng của các loài thành viên; nó có thể bao gồm việc đánh giá độ phong phú tương đối của các loài khác nhau cũng như các kiểu dạng của loài.
Do các nguyên nhân khác nhau, đa dạng sinh học nguồn tài nguyên quí giá nhất, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên và đời sống con người đang bị suy thoái nghiêm trọng. Tuy chúng ta ý thức được lợi ích của chúng nhưng chính chúng ta lại đang dần phá hủy sự đa dạng ấy. Có 2 nhóm nguyên nhân chính gây ra sự suy thoái đa dạng sinh học, đó là do các tác động bất lợi của tự nhiên và của con người, trong đó các ảnh hưởng do con người gây nên đặc biệt nghiêm trọng từ giữa thế kỉ XIX đến nay và chủ yếu là làm thay đổi và suy thoái cảnh quan trên diện rộng và điều đó đã đẩy các loài và các quần xã sinh vật vào nạn diệt chủng. Con người phá hủy, chia cắt làm suy thoái sinh cảnh, khai thác quá mức các loài cho nhu cầu của mình, du nhập các loài ngoại lai và gia tăng dịch bệnh cũng là các nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tính đa dạng sinh học.
Tác nhân chính gây ra vấn đề trên chính là quá tình khai thác lạm dụng và thiếu ý thức của con người. Việc chặt phá rừng bừa bãi, tập tính di căn di cư của một số dân tộc,… làm phá hủy thảm thực vật, gây ra nhiều hậu quả như mất nơi ở của sinh vật, đất bị sói mòn và thoái hóa, hạn hán, lũ quét gia tăng,… Việc săn bắn các động vật quý hiếm cúng gây mất cân bằng sinh thái. Các nhà máy, xí nghiệp khi hoạt động sản xuất cũng thải ra vô vàn khí độc, làm đen kịt cả bầu trời. Các khí độc ấy khi bay vào không khí một phần sẽ gây các bệnh về đường hô hấp ở người, một phần bốc hơi lên, gặp lạnh sẽ ngưng tụ thành mây, tạo ra mưa axit làm cho các công trình kiến trúc bị hư tổn. Các bác nông dân vì ham muốn lợi nhuận mà đã sử dụng vô tội vạ các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ khiến nguồn nước xung quanh bị ô nhiễm nặng nề, các sinh vật sống dưới nước chết hàng loạt, đồng thời cũng làm ô nhiễm bầu không khí, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Những nguyên nhân chính làm suy thoái tài nguyên động vật rừng là nạn săn bắn, buôn bán trái phép và mất rừng; Sự suy giảm diện tích rừng do chuyển đổi mục đích sử dụng, phát triển công nghiệp, du lịch và dịch vụ đã làm mất nơi cư trú, phân cắt và nhiễu loạn môi trường sống của các loài. Do nhu cầu thị trường về các sản phẩm có nguồn gốc động vật hoang dã ngày càng gia tăng, dẫn tới nạn săn bắn quá mức và sự quản lý chưa hiệu quả đã làm cho các quần thể động vật hoang dã bị suy giảm trầm trọng.
Giá trị của đa dạng sinh học là vô cùng to lớn và có thể chia thành hai loại giá trị: giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp. Giá trị kinh tế trực tiếp của tính đa dạng sinh học là những giá trị của các sản phẩm sinh vật mà được con người trực tiếp khai thác và sử dụng cho nhu cầu cuộc sống của mình; còn giá trị gián tiếp bao gồm những cái mà con người không thể bán, những lợi ích đó bao gồm số lượng và chất lượng nước, bảo vệ đất, tái tạo, giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hòa khí hậu và cung cấp những phương tiện cho tương lai của xã hội loài người.
Sở dĩ, ta phải bảo vệ sự đa dạng ấy vì tất cả các sinh vật trong hệ sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và có mối quan hệ mật thiết với chúng ta. Rừng có vai trò rất lớn trong việc điều hòa khí hậu, duy trì độ ẩm cho đất, tránh chô đất bị sa mạc hóa. Rừng giữ nước và điều hòa lượng nước trên Trái Đất như là giảm lượng nước chảy, hạn chế lũ lụt, tranh sói mòn. Rừng là nơi sinh sản, là môi trường sống cho giới động vật. Rừng còn cung cấp chất đốt, nguyên liệu thủ công và vô số loại dược liệu quý. Nó cung cấp nguồn thức ăn cho động vật.
Cùng với các tài nguyên khác, động vật rừng đã góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước và là cơ sở quan trọng cho bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững. Mỗi loài động vật là một mắc xích quan trọng trong mỗi chuỗi và lứa thức ăn. Động vật góp phần vào quá trình tuần hoàn và chuyển hóa vật chất trong tự nhiên, tạo ra sự cân bằng sinh thái. Động vật góp phần vào việc phát tán thực vật và qua đó tham gia duy trì tính đa dạng của sinh vật. Động vật còn cung cấp nguồn thực phẩm và dinh dưỡng quan trọng cho con người, nguồn dược liệu, nguyên liệu cho ngành sản xuất và sinh hoạt của con người. Động vật cung cấp sức kéo, sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp. Một số loài có giá trị văn hóa, một số loài có tác dụng tiêu diệt các loài sinh vật có hại. Ta phải bảo tồn các loài động vật quý hiêm vì hiện nay việc săn bắn động vật quý hiếm bừa bãi, khai thác không có kế hoạch của con người, ô nhiễm môi trường đã dẫn đến tiệt chủng một số loài động vật quý hiếm. do nhiều nguyên nhân khác nhau, nguồn tài nguyên này đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, ta cần phải có những biện pháp tối ưu nhất để có thể giải quyết những vấn đề trên. Việc bảo tồn đa dạng sinh học không chỉ là trách nhiệm của các nhà khoa học, các nhà bảo tồn thiên nhiên mà còn là trách nhiệm của mỗi người sống trên hành tinh xanh này.
Chúng ta cần có biện pháp khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên sinh vật một cách hợp lý và hiệu quả, kết hợp với việc bảo vệ và nuôi trồng, tránh gây lãng phí các nguồn tài nguyên. Không sử dụng các biện pháp đánh, bắt đã bị ngăn cấm để không làm ảnh hưởng đến môi trường sống và sự sinh sản của sinh vật.
Cần xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu sinh thái để tăng diện tích môi trường sống tự nhiên cho các loài sinh vật, đồng thời nhân giống nhằm duy trì các loài sinh vật quý hiếm. Việc thành lập hệ thống các khu bảo tồn là bước đi rất quan trọng trong việc bảo tồn các loài, quần xã sinh vật và hệ sinh thái. Khu bảo tồn được định nghĩa là
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
Thế giới xung quanh ta tồn tại biết bao điều kỳ thú. Chúng luôn tồn tại song song với nhau và song song với cuộc sống của chúng ta. Cuộc sống của chúng ta vô cùng đa dạng và phong phú, khiến chúng ta khó có thể hiểu và giải thích hết được tất cả những gì đang xảy ra xung quanh. Đó chính là sự đa dạng sinh học. Chính vì điều đó mà chúng ta phải cần đến nhiều kiến thức từ nhiều môn học khác nhau nới có thể hiểu được một cách rõ ràng hơn, sâu sắc hơn các vấn đề ấy rồi từ đó có những biện pháp đúng đắn, tối ưu nhất giải quyết chúng.Đa dạng sinh học là thuật ngữ thể hiện tính đa dạng của các cá thể sống, loài và quần thể, tính biến động di truyền giữa chúng và tất cả sự tập hợp phức tạp của chúng thành các quần xã và hệ sinh thái. Đa dạng sinh học được thể hiện ở ba cấp độ: Đa dạng di truyền, đa dạng về loài và đa dạng về hệ sinh thái. "Mặc dù có nhiều nỗ lực trong công tác quản lý đa dạng sinh học trong thời gian qua, nhưng đa dạng sinh học của Việt Nam vẫn đang trên đà suy thoái", ông Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng định như vậy tại lễ mít tinh kỷ niệm Ngày quốc tế Đa dạng sinh học 2013. Việt Nam được biết đến như là một trung tâm đa dạng sinh học của thê giới, với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú.Trong khi đa dạng di truyền được cho là sự khác biệt của các đặc tính di truyền giữa các xuất xứ, quần thể và giữa các cá thể trong một loài hay một quần thể thì đa dạng loài chỉ mức độ phong phú về số lượng loài hoặc loài phụ trên quả đất, ở một vùng địa lý, trong một quốc gia hay trong một sinh cảnh nào đó. Đa dạng loài là đa dạng về số lượng, về loài được tìm thấy tại một khu vực nhất định. Ngoài ra, nó còn thể hiện sự khác biệt trong một hay nhiều quần thể của một loài cũng như đối với quần thể của các loài khác. Ước tính đến nay, trên thế giới đã có khoảng 1,7 triệu loài được xác định. Nhưng thực chất có đến 12,5 triệu loài trên Trái Đất. Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP), gần 900 loài đang có nguy cơ tuyệt chủng và có ít nhất 10 loài đã tuyệt chủng ở Việt Nam, trong đó có loài tê giác Java.Đầu tiên, ta nói đến giới thực vật. Giới thực vật rất đa dạng về loài, cấu tạo cơ thể và các hoạt động sống thích nghi với các môi trường sống khác nhau. Theo thống ke có khoảng 300 nghìn loài thực vật trên thế giới. Riêng ở Việt Nam đã có khoảng 15 nghìn loài, trong đó có khoảng 2300 loài có ý nghĩa kinh tế. Rừng ở Việt Nam phủ gần 50% diện tích với hệ thực vật vô cùng đa dạng, phong phú. Thế giới động vật cũng đa dạng không kém. Số lượng các loài động vật sinh sống trên Trái Đất đang giảm nhanh, đặc biệt là động vật có vú khi hiện khoảng 1/5 các loài động vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. động vật rừng đã góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước và là cơ sở quan trọng cho bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững. Song, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nguồn tài nguyên này đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng, đang có nguy cơ bị tuyệt chủng hoặc suy giảm số lượng một cách đáng lo ngại. Về đa dạng hệ sinh thái, hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa và phân loại thống nhất nào ở mức toàn cầu. Đa dạng hệ sinh thái thường được đánh giá thông qua tính đa dạng của các loài thành viên; nó có thể bao gồm việc đánh giá độ phong phú tương đối của các loài khác nhau cũng như các kiểu dạng của loài.Do các nguyên nhân khác nhau, đa dạng sinh học nguồn tài nguyên quí giá nhất, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên và đời sống con người đang bị suy thoái nghiêm trọng. Tuy chúng ta ý thức được lợi ích của chúng nhưng chính chúng ta lại đang dần phá hủy sự đa dạng ấy. Có 2 nhóm nguyên nhân chính gây ra sự suy thoái đa dạng sinh học, đó là do các tác động bất lợi của tự nhiên và của con người, trong đó các ảnh hưởng do con người gây nên đặc biệt nghiêm trọng từ giữa thế kỉ XIX đến nay và chủ yếu là làm thay đổi và suy thoái cảnh quan trên diện rộng và điều đó đã đẩy các loài và các quần xã sinh vật vào nạn diệt chủng. Con người phá hủy, chia cắt làm suy thoái sinh cảnh, khai thác quá mức các loài cho nhu cầu của mình, du nhập các loài ngoại lai và gia tăng dịch bệnh cũng là các nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tính đa dạng sinh học.
Tác nhân chính gây ra vấn đề trên chính là quá tình khai thác lạm dụng và thiếu ý thức của con người. Việc chặt phá rừng bừa bãi, tập tính di căn di cư của một số dân tộc,… làm phá hủy thảm thực vật, gây ra nhiều hậu quả như mất nơi ở của sinh vật, đất bị sói mòn và thoái hóa, hạn hán, lũ quét gia tăng,… Việc săn bắn các động vật quý hiếm cúng gây mất cân bằng sinh thái. Các nhà máy, xí nghiệp khi hoạt động sản xuất cũng thải ra vô vàn khí độc, làm đen kịt cả bầu trời. Các khí độc ấy khi bay vào không khí một phần sẽ gây các bệnh về đường hô hấp ở người, một phần bốc hơi lên, gặp lạnh sẽ ngưng tụ thành mây, tạo ra mưa axit làm cho các công trình kiến trúc bị hư tổn. Các bác nông dân vì ham muốn lợi nhuận mà đã sử dụng vô tội vạ các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ khiến nguồn nước xung quanh bị ô nhiễm nặng nề, các sinh vật sống dưới nước chết hàng loạt, đồng thời cũng làm ô nhiễm bầu không khí, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Những nguyên nhân chính làm suy thoái tài nguyên động vật rừng là nạn săn bắn, buôn bán trái phép và mất rừng; Sự suy giảm diện tích rừng do chuyển đổi mục đích sử dụng, phát triển công nghiệp, du lịch và dịch vụ đã làm mất nơi cư trú, phân cắt và nhiễu loạn môi trường sống của các loài. Do nhu cầu thị trường về các sản phẩm có nguồn gốc động vật hoang dã ngày càng gia tăng, dẫn tới nạn săn bắn quá mức và sự quản lý chưa hiệu quả đã làm cho các quần thể động vật hoang dã bị suy giảm trầm trọng.
Giá trị của đa dạng sinh học là vô cùng to lớn và có thể chia thành hai loại giá trị: giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp. Giá trị kinh tế trực tiếp của tính đa dạng sinh học là những giá trị của các sản phẩm sinh vật mà được con người trực tiếp khai thác và sử dụng cho nhu cầu cuộc sống của mình; còn giá trị gián tiếp bao gồm những cái mà con người không thể bán, những lợi ích đó bao gồm số lượng và chất lượng nước, bảo vệ đất, tái tạo, giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hòa khí hậu và cung cấp những phương tiện cho tương lai của xã hội loài người.
Sở dĩ, ta phải bảo vệ sự đa dạng ấy vì tất cả các sinh vật trong hệ sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và có mối quan hệ mật thiết với chúng ta. Rừng có vai trò rất lớn trong việc điều hòa khí hậu, duy trì độ ẩm cho đất, tránh chô đất bị sa mạc hóa. Rừng giữ nước và điều hòa lượng nước trên Trái Đất như là giảm lượng nước chảy, hạn chế lũ lụt, tranh sói mòn. Rừng là nơi sinh sản, là môi trường sống cho giới động vật. Rừng còn cung cấp chất đốt, nguyên liệu thủ công và vô số loại dược liệu quý. Nó cung cấp nguồn thức ăn cho động vật.
Cùng với các tài nguyên khác, động vật rừng đã góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước và là cơ sở quan trọng cho bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững. Mỗi loài động vật là một mắc xích quan trọng trong mỗi chuỗi và lứa thức ăn. Động vật góp phần vào quá trình tuần hoàn và chuyển hóa vật chất trong tự nhiên, tạo ra sự cân bằng sinh thái. Động vật góp phần vào việc phát tán thực vật và qua đó tham gia duy trì tính đa dạng của sinh vật. Động vật còn cung cấp nguồn thực phẩm và dinh dưỡng quan trọng cho con người, nguồn dược liệu, nguyên liệu cho ngành sản xuất và sinh hoạt của con người. Động vật cung cấp sức kéo, sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp. Một số loài có giá trị văn hóa, một số loài có tác dụng tiêu diệt các loài sinh vật có hại. Ta phải bảo tồn các loài động vật quý hiêm vì hiện nay việc săn bắn động vật quý hiếm bừa bãi, khai thác không có kế hoạch của con người, ô nhiễm môi trường đã dẫn đến tiệt chủng một số loài động vật quý hiếm. do nhiều nguyên nhân khác nhau, nguồn tài nguyên này đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, ta cần phải có những biện pháp tối ưu nhất để có thể giải quyết những vấn đề trên. Việc bảo tồn đa dạng sinh học không chỉ là trách nhiệm của các nhà khoa học, các nhà bảo tồn thiên nhiên mà còn là trách nhiệm của mỗi người sống trên hành tinh xanh này.
Chúng ta cần có biện pháp khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên sinh vật một cách hợp lý và hiệu quả, kết hợp với việc bảo vệ và nuôi trồng, tránh gây lãng phí các nguồn tài nguyên. Không sử dụng các biện pháp đánh, bắt đã bị ngăn cấm để không làm ảnh hưởng đến môi trường sống và sự sinh sản của sinh vật.
Cần xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu sinh thái để tăng diện tích môi trường sống tự nhiên cho các loài sinh vật, đồng thời nhân giống nhằm duy trì các loài sinh vật quý hiếm. Việc thành lập hệ thống các khu bảo tồn là bước đi rất quan trọng trong việc bảo tồn các loài, quần xã sinh vật và hệ sinh thái. Khu bảo tồn được định nghĩa là
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Anh) 2:[Sao chép]
Sao chép!
Thế giới xung quanh ta tồn tại biết bao điều kỳ thú. Chúng luôn tồn tại song song với nhau và song song với cuộc sống của chúng ta. Cuộc sống của chúng ta vô cùng đa dạng và phong phú, khiến chúng ta khó có thể hiểu và giải thích hết được tất cả những gì đang xảy ra xung quanh. Đó chính là sự đa dạng sinh học. Chính vì điều đó mà chúng ta phải cần đến nhiều kiến thức từ nhiều môn học khác nhau nới có thể hiểu được một cách rõ ràng hơn, sâu sắc hơn các vấn đề ấy rồi từ đó có những biện pháp đúng đắn, tối ưu nhất giải quyết chúng.
Đa dạng sinh học là thuật ngữ thể hiện tính đa dạng của các cá thể sống, loài và quần thể, tính biến động di truyền giữa chúng và tất cả sự tập hợp phức tạp của chúng thành các quần xã và hệ sinh thái. Đa dạng sinh học được thể hiện ở ba cấp độ: Đa dạng di truyền, đa dạng về loài và đa dạng về hệ sinh thái. "Mặc dù có nhiều nỗ lực trong công tác quản lý đa dạng sinh học trong thời gian qua, nhưng đa dạng sinh học của Việt Nam vẫn đang trên đà suy thoái", ông Bùi Cách Tuyến, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường khẳng định như vậy tại lễ mít tinh kỷ niệm Ngày quốc tế Đa dạng sinh học 2013. Việt Nam được biết đến như là một trung tâm đa dạng sinh học của thê giới, với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú.
Trong khi đa dạng di truyền được cho là sự khác biệt của các đặc tính di truyền giữa các xuất xứ, quần thể và giữa các cá thể trong một loài hay một quần thể thì đa dạng loài chỉ mức độ phong phú về số lượng loài hoặc loài phụ trên quả đất, ở một vùng địa lý, trong một quốc gia hay trong một sinh cảnh nào đó. Đa dạng loài là đa dạng về số lượng, về loài được tìm thấy tại một khu vực nhất định. Ngoài ra, nó còn thể hiện sự khác biệt trong một hay nhiều quần thể của một loài cũng như đối với quần thể của các loài khác. Ước tính đến nay, trên thế giới đã có khoảng 1,7 triệu loài được xác định. Nhưng thực chất có đến 12,5 triệu loài trên Trái Đất. Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam (UNDP), gần 900 loài đang có nguy cơ tuyệt chủng và có ít nhất 10 loài đã tuyệt chủng ở Việt Nam, trong đó có loài tê giác Java.

Đầu tiên, ta nói đến giới thực vật. Giới thực vật rất đa dạng về loài, cấu tạo cơ thể và các hoạt động sống thích nghi với các môi trường sống khác nhau. Theo thống ke có khoảng 300 nghìn loài thực vật trên thế giới. Riêng ở Việt Nam đã có khoảng 15 nghìn loài, trong đó có khoảng 2300 loài có ý nghĩa kinh tế. Rừng ở Việt Nam phủ gần 50% diện tích với hệ thực vật vô cùng đa dạng, phong phú.
Thế giới động vật cũng đa dạng không kém. Số lượng các loài động vật sinh sống trên Trái Đất đang giảm nhanh, đặc biệt là động vật có vú khi hiện khoảng 1/5 các loài động vật đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. động vật rừng đã góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước và là cơ sở quan trọng cho bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững. Song, do nhiều nguyên nhân khác nhau, nguồn tài nguyên này đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng, đang có nguy cơ bị tuyệt chủng hoặc suy giảm số lượng một cách đáng lo ngại.
Về đa dạng hệ sinh thái, hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa và phân loại thống nhất nào ở mức toàn cầu. Đa dạng hệ sinh thái thường được đánh giá thông qua tính đa dạng của các loài thành viên; nó có thể bao gồm việc đánh giá độ phong phú tương đối của các loài khác nhau cũng như các kiểu dạng của loài.
Do các nguyên nhân khác nhau, đa dạng sinh học nguồn tài nguyên quí giá nhất, đóng vai trò rất lớn đối với tự nhiên và đời sống con người đang bị suy thoái nghiêm trọng. Tuy chúng ta ý thức được lợi ích của chúng nhưng chính chúng ta lại đang dần phá hủy sự đa dạng ấy. Có 2 nhóm nguyên nhân chính gây ra sự suy thoái đa dạng sinh học, đó là do các tác động bất lợi của tự nhiên và của con người, trong đó các ảnh hưởng do con người gây nên đặc biệt nghiêm trọng từ giữa thế kỉ XIX đến nay và chủ yếu là làm thay đổi và suy thoái cảnh quan trên diện rộng và điều đó đã đẩy các loài và các quần xã sinh vật vào nạn diệt chủng. Con người phá hủy, chia cắt làm suy thoái sinh cảnh, khai thác quá mức các loài cho nhu cầu của mình, du nhập các loài ngoại lai và gia tăng dịch bệnh cũng là các nguyên nhân quan trọng làm suy thoái tính đa dạng sinh học.
Tác nhân chính gây ra vấn đề trên chính là quá tình khai thác lạm dụng và thiếu ý thức của con người. Việc chặt phá rừng bừa bãi, tập tính di căn di cư của một số dân tộc,… làm phá hủy thảm thực vật, gây ra nhiều hậu quả như mất nơi ở của sinh vật, đất bị sói mòn và thoái hóa, hạn hán, lũ quét gia tăng,… Việc săn bắn các động vật quý hiếm cúng gây mất cân bằng sinh thái. Các nhà máy, xí nghiệp khi hoạt động sản xuất cũng thải ra vô vàn khí độc, làm đen kịt cả bầu trời. Các khí độc ấy khi bay vào không khí một phần sẽ gây các bệnh về đường hô hấp ở người, một phần bốc hơi lên, gặp lạnh sẽ ngưng tụ thành mây, tạo ra mưa axit làm cho các công trình kiến trúc bị hư tổn. Các bác nông dân vì ham muốn lợi nhuận mà đã sử dụng vô tội vạ các loại thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ khiến nguồn nước xung quanh bị ô nhiễm nặng nề, các sinh vật sống dưới nước chết hàng loạt, đồng thời cũng làm ô nhiễm bầu không khí, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Những nguyên nhân chính làm suy thoái tài nguyên động vật rừng là nạn săn bắn, buôn bán trái phép và mất rừng; Sự suy giảm diện tích rừng do chuyển đổi mục đích sử dụng, phát triển công nghiệp, du lịch và dịch vụ đã làm mất nơi cư trú, phân cắt và nhiễu loạn môi trường sống của các loài. Do nhu cầu thị trường về các sản phẩm có nguồn gốc động vật hoang dã ngày càng gia tăng, dẫn tới nạn săn bắn quá mức và sự quản lý chưa hiệu quả đã làm cho các quần thể động vật hoang dã bị suy giảm trầm trọng.
Giá trị của đa dạng sinh học là vô cùng to lớn và có thể chia thành hai loại giá trị: giá trị trực tiếp và giá trị gián tiếp. Giá trị kinh tế trực tiếp của tính đa dạng sinh học là những giá trị của các sản phẩm sinh vật mà được con người trực tiếp khai thác và sử dụng cho nhu cầu cuộc sống của mình; còn giá trị gián tiếp bao gồm những cái mà con người không thể bán, những lợi ích đó bao gồm số lượng và chất lượng nước, bảo vệ đất, tái tạo, giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hòa khí hậu và cung cấp những phương tiện cho tương lai của xã hội loài người.
Sở dĩ, ta phải bảo vệ sự đa dạng ấy vì tất cả các sinh vật trong hệ sinh thái có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và có mối quan hệ mật thiết với chúng ta. Rừng có vai trò rất lớn trong việc điều hòa khí hậu, duy trì độ ẩm cho đất, tránh chô đất bị sa mạc hóa. Rừng giữ nước và điều hòa lượng nước trên Trái Đất như là giảm lượng nước chảy, hạn chế lũ lụt, tranh sói mòn. Rừng là nơi sinh sản, là môi trường sống cho giới động vật. Rừng còn cung cấp chất đốt, nguyên liệu thủ công và vô số loại dược liệu quý. Nó cung cấp nguồn thức ăn cho động vật.
Cùng với các tài nguyên khác, động vật rừng đã góp phần quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước và là cơ sở quan trọng cho bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển bền vững. Mỗi loài động vật là một mắc xích quan trọng trong mỗi chuỗi và lứa thức ăn. Động vật góp phần vào quá trình tuần hoàn và chuyển hóa vật chất trong tự nhiên, tạo ra sự cân bằng sinh thái. Động vật góp phần vào việc phát tán thực vật và qua đó tham gia duy trì tính đa dạng của sinh vật. Động vật còn cung cấp nguồn thực phẩm và dinh dưỡng quan trọng cho con người, nguồn dược liệu, nguyên liệu cho ngành sản xuất và sinh hoạt của con người. Động vật cung cấp sức kéo, sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp. Một số loài có giá trị văn hóa, một số loài có tác dụng tiêu diệt các loài sinh vật có hại. Ta phải bảo tồn các loài động vật quý hiêm vì hiện nay việc săn bắn động vật quý hiếm bừa bãi, khai thác không có kế hoạch của con người, ô nhiễm môi trường đã dẫn đến tiệt chủng một số loài động vật quý hiếm. do nhiều nguyên nhân khác nhau, nguồn tài nguyên này đã và đang bị suy thoái nghiêm trọng.
Trước tình hình đó, ta cần phải có những biện pháp tối ưu nhất để có thể giải quyết những vấn đề trên. Việc bảo tồn đa dạng sinh học không chỉ là trách nhiệm của các nhà khoa học, các nhà bảo tồn thiên nhiên mà còn là trách nhiệm của mỗi người sống trên hành tinh xanh này.
Chúng ta cần có biện pháp khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên sinh vật một cách hợp lý và hiệu quả, kết hợp với việc bảo vệ và nuôi trồng, tránh gây lãng phí các nguồn tài nguyên. Không sử dụng các biện pháp đánh, bắt đã bị ngăn cấm để không làm ảnh hưởng đến môi trường sống và sự sinh sản của sinh vật.
Cần xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu sinh thái để tăng diện tích môi trường sống tự nhiên cho các loài sinh vật, đồng thời nhân giống nhằm duy trì các loài sinh vật quý hiếm. Việc thành lập hệ thống các khu bảo tồn là bước đi rất quan trọng trong việc bảo tồn các loài, quần xã sinh vật và hệ sinh thái. Khu bảo tồn được định nghĩa là
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2025 I Love Translation. All reserved.

E-mail: