Thời điểm hiện tại ở các nước phát triển, tỷ lệ thất nghiệp của những cá nhân không có việc làm trong 12 tháng trở lên tiếp tục tăng trong quý II và đạt tỷ lệ cao nhất kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu vào năm 2008, theo số liệu được cung cấp vào cuộc họp vào ngày thứ tư của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế Quốc tế (OECD). Tỷ lệ thất nghiệp trong số 34 thành viên của OECD là không thay đổi từ tháng bảy ở mức 7,9%, số liệu của OECD cho thấy. Nhưng trong khi xu hướng chung của tỷ lệ thất nghiệp dường như đã ổn, tỷ lệ những người thất nghiệp dài hạn được xác định như là thất nghiệp trong 12 tháng trở lên, tiếp tục tăng cao. Đây là một sự lo lắng cho các nhà hoạch định chính sách, vì nghiên cứu cho thấy rằng khi một cá nhân không có việc làm, nhiều kỹ năng của họ sẽ bị thui chột và khả năng tìm việc mới sẽ khó hơn. Số liệu của OECD cho thấy tỷ lệ thất nghiệp dài hạn trong tổng số thất nghiệp tăng lên 35,3% trong quý II năm nay từ con số 34,9% trong quý đầu tiên năm nay, và 27% trong quý cuối cùng của năm 2007. Tương đương với tổng số 17 triệu người thất nghiệp trong quý II, tăng 8,6 triệu kể từ cuối năm 2007 . Các nước bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính của khu vực đồng euro là những quốc gia đã phát triển có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất. Ở Hy Lạp, tỷ lệ những người không có công ăn việc làm, những người đã bị thất nghiệp ít nhất 12 tháng đứng ở mức 65,5% trong quý II, mức cao nhất giữa các thành viên OECD. Ai-len có tỷ lệ thất nghiệp dài hạn là 59 %, trong khi ở Bồ Đào Nha đó là 56,1% và tại Ý 56,4%. Ngược lại, một số thành viên phía bắc của khu vực đồng euro đã cho thấy mức giảm tỷ lệ thất nghiệp dài hạn. Tại Đức, tỷ lệ thất nghiệp dài hạn trong tổng dân số không có việc làm giảm xuống còn 17% trong quý II từ 21,7 % vào cuối năm 2007. Tại Mỹ, tỷ lệ thất nghiệp dài hạn ở mức 26,5 % của tổng số thất nghiệp trong quý II, tăng từ 9,9% trong quý cuối cùng của năm 2007.
đang được dịch, vui lòng đợi..