2.3  农村贷款数据分析Doanh số cho vay và dư nợ tín dụngSau hơn hai mươi năm đổ dịch - 2.3  农村贷款数据分析Doanh số cho vay và dư nợ tín dụngSau hơn hai mươi năm đổ Anh làm thế nào để nói

2.3 农村贷款数据分析Doanh số cho vay và dư

2.3 农村贷款数据分析
Doanh số cho vay và dư nợ tín dụng
Sau hơn hai mươi năm đổi mới, chính sách tín dụng đối với nông nghiệp nông thôn đã thực sự khơi thông dòng chảy tín dụng về nông thôn. Nếu như cuối năm 1998 dư nợ tín dụng đối với khu vực nông nghiệp, nông thôn mới chỉ đạt 34.000 tỷ đồng thì đến cuối năm 2009, dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn của ngành ngân hàng đã tăng hơn 9 lần và đạt khoảng 292.919 tỷ đồng ( chiếm tỷ trọng 15.55% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế), có thể thấy dư nợ cho vay lĩnh vuecj nông nghiệp, nông thôn liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trước.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn VN (Agribank) là ngân hàng đóng vai trò chủ lực trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Agribank được thành lập vào năm 1990 và hiện nay là tổ chức có mạng lưới chi nhánh lớn nhất ở nông thôn. Đến cuối năm 2010, Agribank đã có 3 văn phòng đại diện, 8 công ty trực thuộc, 1 sở giao dịch. 158 chi nhánh loại 1, loại 2, 2145 chi nhánh loại 3 và phòng giao dịch và trên 1700 máy ATM. Tỷ lệ tăng trưởng huy động vốn của Agri bank trung bình 23.5%/năm. Với vai trò chủ lực trên thị trường tài chính nông thôn, trong năm 2010, Agribank đã bổ sung trên 40000tyr đồng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, tập trung ưu tiên cho thu mua lương thực,mía đường, cá tra, cá basa, thu mua cà phê theo chương trình thu mua tạm trữ của Chính phủ. Hiện tại tổng dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm 70% tổng dư nợ của Agribank. Tuy nhiên nếu xét riêng về phần huy động tiết kiệm từ khu vực nông thôn chỉ đáp ứng được 85% nhu cầu tín dụng của khu vực này . Mặc dù hoạt động trên khắp 64 tỉnh thành trong cả nước nhưng hầu hết khoản vay của Agribank có giá trị nhỏ và tập trung ở các khu vục nông thông và dư nợ tín dụng ở khu vực nông thôn của Agribank luôn tăng qua các năm. Có thể thấy tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của Agribank trong gia đoạn 2005-2009 là khá ấn tượng. Điều này thể hiện nỗ lực. Điều này thể hiện nỗ lực của Agribank trong việc mở rộng đối tượng và chính sách cho vay cho khu vực nông thôn. Ngoài ra, ngân hàng Chính sách xã hội VN (VBSP) cũng là một ngân hàng đi tiên phong trong mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo. Được thành lập năm 2003, trên cơ sở hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo trước đây, nhiệm vụ của VBSP là cung cấp tín dụng cho hộ nghèo, và các đối tượng chính sách khác góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Tính đến cuối năm 2010, VBSP đã có mạng lưới hoạt động gồm 64 chi nhánh cấp tỉnh, gần 600 phòng giao dịch cấp huyện, hơn 8000 điểm giao dịch lưu động tại cấp xã, quản lý hơn 200.000 tổ tiết kiệm và vay vốn, dư nợ cho vay hộ nghèo lên tới 27.463,25 tỷ đồng. Nguồn vốn của VBSP tăng chủ yếu do các nguồn tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng, tiền gửi và các khoảng đi vay TCTD khác, ngoài ra còn có tiền gửi khách hàng, vốn tài trợ ủy thác đầu tư. Trong đó, nguồn tiền gửi, tiền vay các TCTD khác có tỷ trọng và tỷ lệ tăng trưởng đạt mức cao nhất.
Bên cạnh Agribank và VBSP, hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân (QTTDND) cũng là tổ chức tín dụng lớn trên thị trường tài chính nông thôn. Nguồn vốn huy động từ ng dân, thủ tục cho vay rất đơn giản và phù hợp với trình độ nông dân, sản phẩm tín dụng khá đa dạng, gần gũi với người dân và có tham gia bảo hiểm tiền gửi nên dễ được cộng đồng hộ nông dân chấp nhận. Bên cạnh việc chú trọng khai thác, phát huy nội lực kể từ khi thành lập đến nay, QTDND cũng đã phát huy tốt vai trò đầu mối liên kết, tiếp nhận và triển khai thành công hơn 20 dự án hỗ trợ kỹ thuật, tài chính quốc tế. Tuy nhiên, cũng tương tự như VBSP, phần huy động tiết kiệm từ khu vực nông thôn chỉ đáp ứng được 81% nhu cẩu tín dụng của khu vực này. Điều này là một thách thức rất lớn do các nguồn vốn đi vay bên ngoài của các quỹ này thường khan hiếm và địa bàn hoạt động bó hẹp tại một phường/xã làm cho vấn đề thanh khoản của các QTDND trở nên trầm trọng hơn.
Ngoài ra còn có một số ngân hàng khác như ngân hàng Đại Tín, Sài Gòn Thương Tín, Kiên Long, Liên Viêt... cũng xác định mục tiêu là thị trường nông thôn. Tuy nhiên, tỷ trọng cho vay nông nghiệp nông thôn trong tổng số dư nợ của các ngân hàng này vẫn chưa cao. Điều này là do cho vay nông nghiệp vừa phải chịu chi phí lớn, rủi ro lại cao hơn những khu vực kinh tế khác.
Đến nay, không chỉ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) - ngân hàng chủ lực trong lĩnh vực đầu tư cho tam nông mà hầu hết các ngân hàng thương mại khác như Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank), Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và một vài đại diện đến từ khối ngân hàng thương mại cổ phần như Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) cũng đều có các chương trình cho vay ở lĩnh vực này, dưới các hình thức như: cho vay nuôi trồng thủy sản, mua tạm trữ lúa gạo; cho vay xuất khẩu nông sản, cho vay thu mua, chế biến chè, cà-phê...
0/5000
Từ: -
Sang: -
Kết quả (Anh) 1: [Sao chép]
Sao chép!
2.3 农村贷款数据分析Loans and credit debit balanceAfter more than twenty years of innovation, credit policy for rural agriculture was actually off the flow of credit through the countryside. If the end of the 1998 outstanding credit for agriculture, rural areas have only reached last year to 34000 billion in 2009, outstanding loans to rural agriculture of the banking industry has increased more than 3 times and reached approximately 292,919 billion (representing 15.55% of the total outstanding loans to economy) , can see the outstanding loans to the agricultural, rural vuecj sectors constantly increase, next year is higher than the previous year.Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn VN (Agribank) là ngân hàng đóng vai trò chủ lực trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Agribank được thành lập vào năm 1990 và hiện nay là tổ chức có mạng lưới chi nhánh lớn nhất ở nông thôn. Đến cuối năm 2010, Agribank đã có 3 văn phòng đại diện, 8 công ty trực thuộc, 1 sở giao dịch. 158 chi nhánh loại 1, loại 2, 2145 chi nhánh loại 3 và phòng giao dịch và trên 1700 máy ATM. Tỷ lệ tăng trưởng huy động vốn của Agri bank trung bình 23.5%/năm. Với vai trò chủ lực trên thị trường tài chính nông thôn, trong năm 2010, Agribank đã bổ sung trên 40000tyr đồng đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, tập trung ưu tiên cho thu mua lương thực,mía đường, cá tra, cá basa, thu mua cà phê theo chương trình thu mua tạm trữ của Chính phủ. Hiện tại tổng dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn chiếm 70% tổng dư nợ của Agribank. Tuy nhiên nếu xét riêng về phần huy động tiết kiệm từ khu vực nông thôn chỉ đáp ứng được 85% nhu cầu tín dụng của khu vực này . Mặc dù hoạt động trên khắp 64 tỉnh thành trong cả nước nhưng hầu hết khoản vay của Agribank có giá trị nhỏ và tập trung ở các khu vục nông thông và dư nợ tín dụng ở khu vực nông thôn của Agribank luôn tăng qua các năm. Có thể thấy tỷ lệ tăng trưởng tín dụng của Agribank trong gia đoạn 2005-2009 là khá ấn tượng. Điều này thể hiện nỗ lực. Điều này thể hiện nỗ lực của Agribank trong việc mở rộng đối tượng và chính sách cho vay cho khu vực nông thôn. Ngoài ra, ngân hàng Chính sách xã hội VN (VBSP) cũng là một ngân hàng đi tiên phong trong mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo. Được thành lập năm 2003, trên cơ sở hoạt động của ngân hàng phục vụ người nghèo trước đây, nhiệm vụ của VBSP là cung cấp tín dụng cho hộ nghèo, và các đối tượng chính sách khác góp phần thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Tính đến cuối năm 2010, VBSP đã có mạng lưới hoạt động gồm 64 chi nhánh cấp tỉnh, gần 600 phòng giao dịch cấp huyện, hơn 8000 điểm giao dịch lưu động tại cấp xã, quản lý hơn 200.000 tổ tiết kiệm và vay vốn, dư nợ cho vay hộ nghèo lên tới 27.463,25 tỷ đồng. Nguồn vốn của VBSP tăng chủ yếu do các nguồn tiền gửi 2% của các tổ chức tín dụng, tiền gửi và các khoảng đi vay TCTD khác, ngoài ra còn có tiền gửi khách hàng, vốn tài trợ ủy thác đầu tư. Trong đó, nguồn tiền gửi, tiền vay các TCTD khác có tỷ trọng và tỷ lệ tăng trưởng đạt mức cao nhất.Bên cạnh Agribank và VBSP, hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân (QTTDND) cũng là tổ chức tín dụng lớn trên thị trường tài chính nông thôn. Nguồn vốn huy động từ ng dân, thủ tục cho vay rất đơn giản và phù hợp với trình độ nông dân, sản phẩm tín dụng khá đa dạng, gần gũi với người dân và có tham gia bảo hiểm tiền gửi nên dễ được cộng đồng hộ nông dân chấp nhận. Bên cạnh việc chú trọng khai thác, phát huy nội lực kể từ khi thành lập đến nay, QTDND cũng đã phát huy tốt vai trò đầu mối liên kết, tiếp nhận và triển khai thành công hơn 20 dự án hỗ trợ kỹ thuật, tài chính quốc tế. Tuy nhiên, cũng tương tự như VBSP, phần huy động tiết kiệm từ khu vực nông thôn chỉ đáp ứng được 81% nhu cẩu tín dụng của khu vực này. Điều này là một thách thức rất lớn do các nguồn vốn đi vay bên ngoài của các quỹ này thường khan hiếm và địa bàn hoạt động bó hẹp tại một phường/xã làm cho vấn đề thanh khoản của các QTDND trở nên trầm trọng hơn.Ngoài ra còn có một số ngân hàng khác như ngân hàng Đại Tín, Sài Gòn Thương Tín, Kiên Long, Liên Viêt... cũng xác định mục tiêu là thị trường nông thôn. Tuy nhiên, tỷ trọng cho vay nông nghiệp nông thôn trong tổng số dư nợ của các ngân hàng này vẫn chưa cao. Điều này là do cho vay nông nghiệp vừa phải chịu chi phí lớn, rủi ro lại cao hơn những khu vực kinh tế khác. Đến nay, không chỉ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) - ngân hàng chủ lực trong lĩnh vực đầu tư cho tam nông mà hầu hết các ngân hàng thương mại khác như Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam (Vietinbank), Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Vietcombank, Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và một vài đại diện đến từ khối ngân hàng thương mại cổ phần như Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) cũng đều có các chương trình cho vay ở lĩnh vực này, dưới các hình thức như: cho vay nuôi trồng thủy sản, mua tạm trữ lúa gạo; cho vay xuất khẩu nông sản, cho vay thu mua, chế biến chè, cà-phê...
đang được dịch, vui lòng đợi..
Kết quả (Anh) 2:[Sao chép]
Sao chép!
农村贷款数据分析2.3
Loan sales and credit balance
After more than twenty years of innovation, credit policies for rural agriculture has actually unfreeze the credit flow to rural areas. If the end of 1998 outstanding loans to the agricultural sector and rural areas only reached 34,000 billion by the end of 2009, outstanding loans to agriculture and rural areas of the banking sector has increased by more than 9 times and reached 292 919 billion (proportion 15:55% of total outstanding loans to the economy), can find loans vuecj fields of agriculture, rural areas continued to increase, year after year.
the Bank for agriculture and rural VN (Agribank) is banking major role in agriculture and rural areas. Agribank was founded in 1990 and is now the organization has the largest branch network in rural areas. By the end of 2010, Agribank had 3 representative offices, subsidiaries 8, 1 transaction basis. Branch 158 type 1, type 2, type 3 and 2 145 branches and transaction offices and more than 1700 ATMs. The growth rate of Agri bank capital mobilization average 23.5% / year. With a major role in rural financial market, in 2010, Agribank has additional investment in copper 40000tyr for agriculture, rural areas and focus priorities for purchasing foods, sugar, fish, fish basa, coffee buyers purchasing program of the Government for temporary storage. Currently the total loan portfolio of rural agriculture accounts for 70% of total loans of Agribank. However, in terms of section separate from savings mobilization in rural areas only 85% meet the credit needs of the region. Although operating in 64 provinces and cities nationwide, but most of Agribank loans of small value and is concentrated in the rural areas and the credit balance in the rural areas of Agribank has been increasing over the years. Can see credit growth rate of Agribank in 2005-2009 stage is quite impressive. This reflects the efforts. This reflects the efforts of the Agribank in expanding audience and lending policies for rural areas. In addition, the Social Policy Bank VN (VBSP) is also a pioneering bank in the national goals of poverty reduction. Founded in 2003, on the basis of bank operations serve the poor before, VBSP mission is to provide credit to the poor, and other social policy beneficiaries contribute to the reduction target poor. By the end of 2010, VBSP had operational network consists of 64 provincial branches, 600 district transaction offices, over 8,000 mobile transaction points at commune level, managed more than 200,000 savings and loan organizations, poor household loans amounted to 27,463.25 billion. Vase's capital increased mainly due to the 2% of deposits of credit institutions, deposits and other banks about borrowing, in addition to customer deposits, financing capital investment trusts. In particular, source of deposits and loans to other banks density and rate of growth reached the highest level.
Besides Agribank and VBSP system People's Credit Fund (QTTDND) credit institutions as well as large market rural finance field. Ng capital mobilized from the people, the lending procedure is simple and consistent with the level of farmers, credit products are quite diverse, close to the people and have insured deposits should be easy to get community farmers accepted. Besides focusing on exploiting, developing internal resources since its founding, the PCF has a leading role to promote better linkages, receive and successfully implemented more than 20 projects of technical assistance, financing international major. However, similar VBSP, savings mobilization in rural areas only 81% meet the credit needs of the region. This is a huge challenge due to the external borrowing funds of funds often scarce and confined working areas in a ward / commune for liquidity problems of the PCF became more serious.
there are also a number of other banks like bank Trust, Saigon Thuong Tin, Kien Long, Lien Viet ... is also targeting the rural market. However, the proportion of loans to agriculture and rural areas in the total outstanding loans of the banks are still not high. This is because agricultural lending has suffered major cost, higher risk to other economic areas.
So far, not only the Bank for Agriculture and Rural Development of Vietnam (Agribank) - Banks Home force in the field of agricultural investment triangle that most other commercial banks as joint-stock commercial Bank for Industry and trade of Vietnam (Vietinbank), Bank for Foreign trade Joint stock commercial Vietcombank, joint-stock commercial Bank investments investment and Development of Vietnam (BIDV) and several representatives from commercial banks such as Bank shares trade shares Vietnam Postal Union (Lienvietpostbank) also have lending programs in this field, in forms such as loans for aquaculture, buy rice for temporary storage; agricultural export loans, loan collection and processing of tea, coffee ...
đang được dịch, vui lòng đợi..
 
Các ngôn ngữ khác
Hỗ trợ công cụ dịch thuật: Albania, Amharic, Anh, Armenia, Azerbaijan, Ba Lan, Ba Tư, Bantu, Basque, Belarus, Bengal, Bosnia, Bulgaria, Bồ Đào Nha, Catalan, Cebuano, Chichewa, Corsi, Creole (Haiti), Croatia, Do Thái, Estonia, Filipino, Frisia, Gael Scotland, Galicia, George, Gujarat, Hausa, Hawaii, Hindi, Hmong, Hungary, Hy Lạp, Hà Lan, Hà Lan (Nam Phi), Hàn, Iceland, Igbo, Ireland, Java, Kannada, Kazakh, Khmer, Kinyarwanda, Klingon, Kurd, Kyrgyz, Latinh, Latvia, Litva, Luxembourg, Lào, Macedonia, Malagasy, Malayalam, Malta, Maori, Marathi, Myanmar, Mã Lai, Mông Cổ, Na Uy, Nepal, Nga, Nhật, Odia (Oriya), Pashto, Pháp, Phát hiện ngôn ngữ, Phần Lan, Punjab, Quốc tế ngữ, Rumani, Samoa, Serbia, Sesotho, Shona, Sindhi, Sinhala, Slovak, Slovenia, Somali, Sunda, Swahili, Séc, Tajik, Tamil, Tatar, Telugu, Thái, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Tiếng Indonesia, Tiếng Ý, Trung, Trung (Phồn thể), Turkmen, Tây Ban Nha, Ukraina, Urdu, Uyghur, Uzbek, Việt, Xứ Wales, Yiddish, Yoruba, Zulu, Đan Mạch, Đức, Ả Rập, dịch ngôn ngữ.

Copyright ©2024 I Love Translation. All reserved.

E-mail: